QĐND Online - Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước ta chuyển sang thời kỳ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất. Ở miền Nam, lực lượng vũ trang ta tham gia củng cố chính quyền cách mạng, cải tạo nguỵ quân, nguỵ quyền, trấn áp các tổ chức phản động, giữ gìn an ninh chính trị và cùng toàn dân hàn gắn vết thương sau 30 năm chiến tranh để lại; chuyển một bộ phận lực lượng sang làm nhiệm vụ phát triển kinh tế, sản xuất, giúp nhân dân ổn định xây dựng cuộc sống mới.

Nhưng ở Campuchia, bọn phản động Pôn pốt – Iêng-xari sau khi nắm chính quyền thi hành những chính sách vô cùng tàn bạo như: Đàn áp trí thức; phá các cơ sở văn hóa, giáo dục; dồn dân vào các công trường tập trung lao động khổ sai; sát hại tất cả những người bất đồng chính kiến bằng các hình thức giết người thời trung cổ… đất nước và xã hội Campuchia bị đảo lộn, nhân dân Campuchia đắm chìm trong tang tóc. Chỉ chưa đầy 3 năm cầm quyền, tập đoàn phản động Pôn Pốt – Iêng-xari đã giết hại gần 2 triệu người dân vô tội, gây nên tội ác bị cả loài người lên án.

Nhân dân thủ đô Phnôm Pênh tiễn đưa quân tình nguyện Việt Nam về nước. Ảnh: TTXVN

Đối với Việt Nam, do được sự giúp đỡ, hậu thuẫn của một số thế lực phản động quốc tế, chính quyền Khơ-me Đỏ ra sức tuyên truyền hận thù dân tộc chống Việt Nam, tổ chức lực lượng vũ trang đông đảo có đủ các quân chủng hải, lục, không quân, chủ động gây chiến tranh xâm lược nước ta. Về quân số lúc cao điểm chúng huy động lên tới 170.000 quân (có 120.000 quân chủ lực, 50.000 quân địa phương). Về lục quân, Khơ-me Đỏ có 23 sư đoàn bộ binh, 3 trung đoàn tăng-thiết giáp (với 280 xe các loại), 1 sư đoàn và 7 trung đoàn pháo binh, súng cối (274 khẩu pháo các loại); 1 trung đoàn pháo phòng không (200 khẩu); 2 sư đoàn không quân (96 máy bay); 1 sư đoàn hải quân ven biển (94 tàu thuyền các loại).

Sau 2 năm gây xung đột vũ trang, đêm 30-4-1977, Khơ-me Đỏ sử dụng lực lượng cỡ sư đoàn đồng loạt tiến công 13/15 xã nằm dọc kênh Vĩnh Tế và 13 đồn biên phòng dọc biên giới thuộc địa bàn Quân khu 9, chính thức xâm lược Việt Nam. Đặc biệt là những cuộc tiến công của địch từ tháng 9-1977 trở đi, chúng tiến hành với quy mô ngày càng lớn và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta (có nơi tới 20km, như ở Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành thuộc tỉnh Tây Ninh), hành động vô cùng tàn bạo, gây ra cảnh đau thương tang tóc đối với đồng bào ta. Đến tháng 12-1978, chính phủ Khơ-me Đỏ huy động hầu như toàn bộ lực lượng quân sự (19/23 sư đoàn bộ binh) và các lực lượng quân binh chủng khác áp sát biên giới, hòng mở cuộc tiến công xâm lược trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Mục tiêu của chúng là đánh chiếm Thị xã Tây Ninh, Hà Tiên, Kiên Lương, Hồng Ngự… nắn đường biên giới Tây Nam tới bờ Tây sông Vàm Cỏ Đông, sau đó phát triển tiếp nếu thấy thời cơ thuận lợi.

Trước những tội ác do địch gây ra, chủ trương của ta là kiên quyết bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ nhân dân; vừa cố gắng giải quyết những bất đồng bằng thương lượng hòa bình, vừa tìm mọi biện pháp để quản lý an ninh biên giới. Tuy nhiên, chính quyền Khơ-me Đỏ vừa tham gia đàm phán, vừa phớt lờ những thỏa thuận đã đạt được, liên tiếp gây ra những tội ác mới rất nghiêm trọng. Sau quá trình tác chiến ngăn chặn địch, ta dần điều chỉnh lực lượng, tạo lập thế trận nhằm bảo vệ vững chắc biên giới, nhân dân; đồng thời hỗ trợ cho lực lượng cách mạng Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng. Đầu tháng 12-1978, biết được mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Khơ-me Đỏ và lực lượng cách mạng Campuchia đề nghị ta giúp đỡ, Bộ Tổng tham mưu nhận định: “Chế độ diệt chủng do Pôn Pốt-Iêng-xari cầm đầu đang có nguy cơ sụp đổ, ta có điều kiện chuyển hướng cục diện cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam”.

Quyết tâm chiến lược bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam của ta được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương phê chuẩn với ý định tác chiến chiến lược là: “Sử dụng hết sức mạnh, tiến công bất ngờ, thần tốc, mãnh liệt kết hợp với ngọn cờ cách mạng Campuchia; bao vây tiêu diệt khối chủ lực địch, nhanh chóng thọc sâu tiêu diệt cơ quan đầu não địch ở Phnôm Pênh, chiếm cảng Kông Pông Xom, các sân bay lớn, ngăn chặn sự can thiệp của quân đội bên ngoài bằng đường biển, đường không, thực hiện đánh nhanh, giải quyết êm, diệt gọn” *1. Theo đó, 5 cụm mục tiêu chiến lược cần giải quyết là khối 19 sư đoàn địch sát biên giới; cơ quan đầu não địch ở Phnôm Pênh; Cảng Kông Pông Xom; các sân bay lớn; các tuyến đường bộ chính sang Thái Lan. Ta hình thành 3 hướng tác chiến chiến lược: Hướng chủ yếu trên địa bàn Quân khu 7, hướng thứ yếu 1 trên địa bàn Quân khu 9, hướng thứ yếu 2 trên địa bàn Quân khu 5; chủ trương của ta mở 2 đợt tiến công liên tiếp quân địch. Đợt đầu đánh bật địch ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và tiêu diệt địch đến bờ sông Mê Kông. Đợt tiếp theo vượt sông Mê Kông tiếp tục tiến công tiêu diệt địch lật đổ chế độ diệt chủng, giúp bạn giải phóng toàn bộ Campuchia.

Để thực hiện ý định tác chiến trên, ta sử dụng lực lượng gồm 18 sư đoàn của 3 Quân khu 5, 7, 9; 3 Quân đoàn 2, 3, 4; Sư đoàn không quân 372; Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126; 1 trung đoàn giang thuyền; 600 xe tăng-thiết giáp, 137 máy bay các loại, 160 tàu thuyền chiến đấu và vận tải, 7.000 ô-tô với tổng số khoảng 25 vạn quân do Bộ Tổng tham mưu trực tiếp chỉ huy.

Lợi dụng tình hình ngày 23-12-1978, quân Pôn Pốt sử dụng 3 sư đoàn (22, 703, 340) tiến công vào khu vực Bắc tỉnh lộ 13, Bến Sỏi, nhằm chiếm thị xã Tây Ninh, ta hạ lệnh cho Quân đoàn 4 mở đầu cuộc phản công chiến lược, đánh tan lực lượng tiến công trên hướng này, tiêu diệt nhiều địch. Tiếp sau đó, ngày 26-12, lực lượng của các Quân khu 5, 7, 9 và các Quân đoàn 2, 3; Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 cùng các lực lượng bảo đảm cho cơ giới vượt sông tiến công hành tiến với sự yểm trợ của hỏa lực không quân, pháo binh chi viện. Trên các hướng An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Gia Lai-Kon Tum… ta thực hiện tiến công hiệp đồng quân binh chủng trên toàn tuyến biên giới Tây Nam và giúp Cách mạng Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng. Trước sức tiến công mãnh liệt của ta, đến ngày 2-1-1979, ba cụm quân chủ lực của địch (mỗi cụm 5 sư đoàn) án ngữ các trục đường 1, 7, 2 về Phnôm Pênh bị tiêu diệt và tan rã. Ngày 7-1, ta giúp bạn lật đổ chế độ Khơ-me Đỏ, giải phóng Phnôm Pênh. Tiếp sau đó, các cánh quân của ta nhanh chóng phát triển tiến công giải phóng các tỉnh còn lại của Cămpuchia. Tới ngày 17-1-1979, tỉnh Cô Công là tỉnh cuối cùng của bạn được giải phóng.

Về nghệ thuật quân sự, đây là lần đầu tiên Quân đội ta huy động lớn lực lượng có đầy đủ các quân binh chủng hợp thành cùng tham gia tác chiến trên một hướng chiến lược. Thực hiện tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn, trong đó Không quân đã hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng mặt đất và Hải quân, xuất kích nhiều lượt, nhiều loại máy bay. Ngày cao điểm có tới 100 lượt chiếc/ngày, khống chế toàn bộ lực lượng không quân địch và chi viện hiệu quả cho các hướng tiến công. Lực lượng Hải quân hiệp đồng với bộ binh và đặc công đã kết hợp giữa đổ bộ bằng sức mạnh với đổ bộ bí mật bất ngờ, tổ chức tiến công trên một hướng giành thắng lợi. Đặc biệt, trên tất cả các hướng tiến công, ta đều thực hiện vượt sông bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng, kết hợp đột phá chính diện với thọc sâu, luồn sâu, chia cắt để lần lượt tiêu diệt địch. Ngay từ đợt tiến công đầu đã làm tan rã khối chủ lực của 19 sư đoàn địch, khống chế 4 mục tiêu chủ yếu khác ở sâu trong nội địa Campuchia. Vì vậy cuộc phản công chiến lược trên toàn tuyến biên giới với chính diện hơn 1.200km, chiều sâu 600km diễn ra với nhịp độ thần tốc. Trong 26 ngày đêm, ta đã đánh bại và làm tan rã 23 sư đoàn địch, lật đổ chế độ phản động Khơ-me Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng, tạo điều kiện cho nhân dân bạn giành chính quyền.

Thắng lợi của cuộc phản công chiến lược ở biên giới Tây Nam vừa là thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trên một hướng chiến lược, đánh dấu bước trưởng thành mới của Quân đội ta, vừa là thắng lợi mang ý nghĩa quốc tế. Chính những hành động của cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cứu đói, cứu thương, chữa bệnh, dạy học, giúp nhân dân Campuchia ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất… trong suốt quá trình tác chiến đã để lại tình cảm và hình ảnh “Đội quân nhà Phật” trong lòng dân tộc Campuchia.

 

 

LÊ TRÙNG DƯƠNG

 

 

(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)

*1: Bộ Tổng Tham mưu. Tổng kết công tác chỉ huy Tham mưu chiến lược trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975-2000). Nxb QĐND, H.2001, tr.35