QĐND Online - Trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chiến thắng Thượng Đức 1974 không chỉ là thành quả to lớn của quân và dân ta, mà còn đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc về trình độ và khả năng tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Sau thắng lợi của đợt hoạt động Hè, quân và dân Khu 5 đã đánh bại một bước kế hoạch bình định lấn chiếm của địch trên các vùng Đức Phú, Ya Súp - Đắc Pét. Để tạo thêm thế và thời cơ có lợi hơn nữa, theo chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu 5 chủ trương mở đợt hoạt động Thu 1974 trên toàn bộ vùng đồng bằng ven biển, trong đó hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà được chọn làm địa bàn tác chiến chủ yếu. Tại hai tỉnh này, Quân khu 5 đã thành lập Mặt trận A4 và tập trung hai sư đoàn bộ binh, một số đơn vị hỏa lực cùng lực lượng địa phương mở chiến dịch Nông Sơn - Thượng Đức. Mục tiêu then chốt quan trọng của chiến dịch là tiến công và giải phóng khu vực Thượng Đức, tạo thế thuận lợi cho đợt hoạt động mùa khô 1974-1975.
 |
Bộ đội tiếp quản chi khu Thượng Đức. Ảnh tư liệu |
Về phía đối phương, mặc dù Hiệp định Pari được ký kết (27-1-1973), nhưng Mỹ và chính quyền Sài Gòn không những không nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định, mà trái lại, chúng còn tiến hành phân tuyến, chia vùng, giành dân, đẩy lực lượng ta ra khỏi vùng đồng bằng và đô thị. Tại Quảng Đà, Mỹ và chính quyền Sài Gòn từng bước lấn chiếm vùng giải phóng ở phía Tây, tập trung xây dựng chi khu quân sự - quận lỵ Thượng Đức hợp với cụm cứ điểm Nông Sơn thành tiền đồn trọng yếu của địch, bảo vệ cửa ngõ phía Tây, hòng ngăn chặn Quân giải phóng tiến xuống vùng đồng bằng Khu 5 và khu liên hợp quân sự của Mỹ tại Đà Nẵng, khống chế Đường số 14. Tại đây, địch có 6 căn cứ trung tâm, 6 tiền đồn ngoại vi, 6 khu dồn dân do Tiểu đoàn 79 biệt động quân, 2 đại đội bảo an 704 và 148 chiếm giữ, 1 đại đội cảnh sát dã chiến, 16 trung đội dân vệ đóng giữ. Hệ thống công sự, vật cản được địch tổ chức vững chắc, xen kẽ với các khu dồn dân, tạo thành “lá chắn sống” bảo vệ căn cứ chính Thượng Đức.
Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 17-7-1974, quân ta nổ súng tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn- Trung Phước, mở màn chiến dịch. Đến ngày 29-7-1974, trong khi địch đang dồn sức đối phó với ta tại cụm cứ điểm Nông Sơn -Trung Phước, Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng lực lượng Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 9), được tăng cường các đơn vị Trung đoàn 3 (Sư đoàn 324); Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 219 Công binh), Đại đội Tên lửa A72 và B72 của Quân đoàn 2; 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương nổ súng tiến công chi khu quân sự - quận lỵ Thượng Đức.
Đêm 28-7-1974, các đơn vị tiến công Thượng Đức của Sư đoàn 304 vào chiếm lĩnh trận địa an toàn. Với phương châm tiến công “vây chặt, đánh mạnh, đánh dứt điểm trong thời gian ngắn”, Sư đoàn 304 sử dụng lực lượng của Trung đoàn 66 tiến công Thượng Đức từ hai hướng Tây Bắc và Tây Nam. Trung đoàn 3 được tăng cường Tiểu đoàn 10 bộ đội địa phương là lực lượng đánh quân viện. Ngày 29-7-1974, quân ta nhanh chóng đánh xong các tiền đồn ngoại vi và tổ chức tiến công trung tâm quận lỵ. Địch chống trả quyết liệt, Trung đoàn 66 chủ công đánh trận này không thể đột kích vào trung tâm được. Ngày 31-7-1974, quân ta liên tiếp tổ chức 3 đợt tiến công nhưng vẫn không thành công, bộ đội bị thương vong nhiều, phải dừng lại giữ bàn đạp, chuẩn bị cho đợt tiến công mới.
Cuộc chiến đấu ở Thượng Đức diễn ra ngày càng quyết liệt. Sau đợt tiến công thứ nhất không thành công, Bộ Chỉ huy chiến dịch lệnh cho Sư đoàn 304 tạm dừng tiến công để bổ sung, củng cố lực lượng, sắp xếp lại tổ chức, hoàn chỉnh hệ thống công sự trận địa; đồng thời, rút kinh nghiệm đợt tiến công trước, phương châm tiến công chuyển sang “đánh chắc thắng”. Theo đó, ngày 6-8-1974, quân ta tiếp tục nổ súng tiến công Thượng Đức lần thứ hai. Đến sáng ngày 7-8-1974, các lực lượng của ta đã hoàn toàn làm chủ chi khu quân sự - quận lỵ Thượng Đức.
Bị mất Thượng Đức và bị tổn thất nặng về lực lượng ở các hướng phối hợp, địch nhiều lần tổ chức lực lượng hòng tái chiếm Thượng Đức nhưng đều thất bại.
Qua 10 ngày đêm chiến đấu, với hai đợt tiến công vào cứ điểm có công sự vững chắc, khắc phục mọi khó khăn, nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ trương và phương châm tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch, chiến đấu liên tục và quả cảm, Sư đoàn 304 (thiếu) cùng Trung đoàn 3 của Sư đoàn 324 và một số đơn vị địa phương đã làm chủ Chi khu Thượng Đức và các vị trí vệ tinh; tiêu diệt và bắt 1.600 tên địch; bắn rơi 13 máy bay A37 và trực thăng vũ trang; thu hơn 1.000 súng các loại, giải phóng quận lỵ Thượng Đức.
Có thể nói, Thượng Đức là quận lỵ đầu tiên ở miền Nam được giải phóng hoàn toàn sau Hiệp định Pari mà địch không chiếm lại được; đồng thời, ta còn gây thiệt hại nặng về lực lượng tổng dự bị của quân đội Sài Gòn. Đó là thắng lợi lớn cả về quân sự và chính trị của quân và dân ta.
Về quân sự, ta tiêu diệt gọn một số lượng lớn quân địch tại chỗ, thu hút, giam chân và tiêu diệt bộ phận cơ động. Về chính trị, ta đã giải phóng hàng vạn dân, giải tán hệ thống chính quyền cơ sở của địch, giáng đòn mạnh vào kế hoạch bình định 3 năm 1973-1975 hòng kéo dài chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch tiến công tổng hợp của Quân khu 5 phát triển.
 |
Tượng đài Chiến thắng Thượng Đức. |
Chiến thắng Thượng Đức đã mở toang “cánh cửa thép”- cửa ngõ phía Tây Nam Đà Nẵng, uy hiếp nghiêm trọng khu liên hợp căn cứ quân sự đồ sộ của địch. Từ thực tiễn chiến trường và qua các trận giao tranh ở Thượng Đức, cấp chiến dịch và chiến lược của ta khẳng định: Lực lượng chủ lực cơ động của ta đã có bước phát triển vượt bậc về trình độ và khả năng tác chiến phối hợp binh chủng hợp thành quy mô lớn, phối hợp chặt chẽ với tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương và phong trào nổi dậy của nhân dân; lực lượng cơ động của địch không còn đủ sức đương đầu với chủ lực cơ động của ta. Đồng thời, chiến thắng này để lại một số kinh nghiệm về tổ chức, chỉ huy chiến đấu như: Đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch; chuẩn bị tác chiến; chọn hướng tiến công đột phá chọc thủng tuyến phòng thủ của địch; hợp đồng binh chủng giữa bộ binh và pháo binh trong tiến công địch trong công sự; sự phối hợp giữa bộ đội chủ lực và dân quân tự vệ địa phương…
Với chiến thắng Thượng Đức, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: Quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn chủ lực cơ động của địch. Một hình thái mới bắt đầu xuất hiện: Địch không còn khả năng chiếm lại các vị trí đã mất, quân ta có đủ khả năng tiến công tiêu diệt địch trong công sự kiên cố, tiêu diệt cụm cứ điểm, chi khu, quận lỵ, giữ được mục tiêu, chiếm đất, giải phóng dân ngay ở vùng giáp ranh”.
TS TRƯƠNG MAI HƯƠNG (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)