QĐND Online - Tháng 8-1971, những thắng lợi liên tiếp của quân dân ba nước Đông Dương đã đẩy quân đội Việt Nam Cộng hòa lui về giữ thế phòng ngự, bị động chống đỡ với các cuộc tiến công của quân dân ta. Tranh thủ thời cơ thuận lợi, Bộ Chính trị đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng như miền Đông Nam Bộ, Trị Thiên, Tây Nguyên và hình thành một cuộc tổng tiến công trên toàn Miền để tiêu diệt một lực lượng lớn quân địch và mở rộng vùng giải phóng, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài. Thực hiện chủ trương trên, Trung ương Cục và Quân ủy Miền đã mở chiến dịch tiến công mang mật danh Nguyễn Huệ trên khu vực miền Đông Nam Bộ, do Trung tướng Trần Văn Trà làm tư lệnh. Chiến dịch Nguyễn Huệ ( từ 1-4-1972 đến 19-1-1973) chọn đường số 13 là hướng tiến công chủ yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch trên hướng bắc Sài Gòn, giải phóng khu vực Bình Long, Phước Long và một số vùng đệm ở Tây Ninh và Bình Dương, tạo thế đứng chân đưa chủ lực Miền từ ngoài biên giới về Nam Bộ, phối hợp với hướng tiến công chủ yếu ở Trị Thiên trong năm 1972, thu hút và ghìm chân quân chủ lực Sài Gòn, tạo điều kiện cho nhân dân Đồng bằng sông Cửu Long nổi dậy đánh phá bình định.

Đến trước thời điểm mở màn chiến dịch, lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa đã bố trí dày đặc trên địa bàn với 4 sư đoàn bộ binh (5, 18, 25 và 21), 1 lữ đoàn dù, 5 liên đoàn biệt động quân, 456 xe tăng, xe bọc thép, 396 khẩu pháo, 67 liên đội và 146 đại đội bảo an, 820 trung đội dân vệ. Thực hiện quyết tâm đánh lớn, đánh quỵ từng bộ phận chủ lực quân đội Việt Nam Cộng hòa, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã huy động một lực lượng to lớn, bao gồm 3 sư đoàn chủ lực (5, 7, 9); 3 trung đoàn bộ binh độc lập (24, 71, 205); 3 trung đoàn bộ binh địa phương (4, 16, 33); Trung đoàn đặc công 429; Trung đoàn 42 và Tiểu đoàn 28 (thuộc Đoàn pháo binh 75); 2 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép; 4 tiểu đoàn pháo cao xạ và súng máy cao xạ. Đây là lần đầu tiên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chiến trường Nam Bộ tiến hành một chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng quy mô tương đương cấp quân đoàn tăng cường.

Sau quá trình chuẩn bị tích cực, chủ động, bí mật, đúng 4 giờ sáng ngày 1-4-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch phát động nổ súng mở màn với đòn tiến công vào đội hình phòng ngự của Chiến đoàn 49 quân đội Việt Nam Cộng hòa ở hướng Thiện Ngôn – Xa Mát, buộc chúng phải tập trung chống đỡ bằng cách điều quân đi chốt giữ các vị trí chiến lược trên tuyến đường 22 quan trọng này. Đòn nghi binh này tạo điều kiện cho các đơn vị quân chủ lực nhanh chóng triển khai lực lượng từ các vị trí tập kết dọc biên giới xuống hướng chủ yếu (đường 13), chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công các trọng điểm: Sư đoàn 5 quân Giải phóng bao vây cụm cứ điểm Lộc Ninh. Sư đoàn 9 quân Giải phóng triển khai phía bắc thị xã An Lộc. Sư đoàn 7 quân Giải phóng chốt chặn dọc Đường 13 trên héc ta khu vực: Cầu Cần Lê (ngã ba đường 17 phía bắc thị xã) và từ nam thị xã đến bắc Chơn Thành. Trong lúc quân đội Việt Nam Cộng hòa đang thất bại nặng nề ở hướng nghi binh thì ngày 5-4, bộ binh quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với xe tăng yểm trợ, bất ngờ tiến công vào chi khu quân sự Lộc Ninh. Chiều ngày 7-4, quân Giải phóng hoàn toàn làm chủ chi khu Lộc Ninh. Hay tin mất Lộc Ninh, quân Sài Gòn bỏ Bù Đốp (tỉnh Phước Long) tháo chạy về thị xã Phước Bình. Lực lượng Chiến đoàn 52 Sài Gòn cũng bỏ căn cứ Đồng Tâm (nam Lộc Ninh) rút chạy về phía nam và lọt vào trận địa phục kích của ta ở cầu Cần Lê khiến cho một bộ phận lớn bị thương vong. Chiến thắng Lộc Ninh không chỉ làm nức lòng quân và dân miền Đông Nam Bộ, mà còn là nguồn cổ vũ to lớn tạo nên khí thế thi đua, quyết tâm giết giặc lập công trong các đơn vị.

Sau khi mất Lộc Ninh, thị xã An Lộc đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt, chính quyền Sài Gòn đã tức tốc tăng cường lực lượng tại đây lên đến 5 chiến đoàn cùng sự chi viện tối đa của hỏa lực pháo binh, không quân để giải tỏa, chốt giữ các khu vực xung quanh tỉnh Bình Long, bảo vệ thị xã An Lộc. Trước diễn biến mới của chiến trường, ngày 15-5-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung lực lượng, chuyển sang tiến công Đường số 13, mở rộng vùng giải phóng ở Bình Long và hình thành thế áp sát bao vây nội ô thị xã An Lộc. Từ ngày 19-5 đến 21-6-1972, lực lượng vũ trang giải phóng cùng với nhân dân địa phương đã đánh bại 2 cuộc hành quân mở đường lên thị xã ở Tàu Ô, gây cho địch nhiều thiệt hại, nhất là lực lượng của Sư đoàn 21, Chiến đoàn 15 Sư đoàn 9, Tiểu đoàn 46 Sư đoàn 25, bảo vệ an toàn căn cứ, tuyến hành lang và vùng giải phóng.

Từ ngày 1-10-1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch chủ trương tiếp tục giữ vững tuyến Đường số 13 để thu hút chủ lực quân đội Việt Nam Cộng hòa, đồng thời phát triển tiến công đánh phá “bình định” ở bắc Bình Dương, Củ Chi, đánh bại lực lượng địch phản kích giải tỏa và hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Đến cuối tháng 12-1972, địch dùng Sư đoàn 5 mở cuộc hành quân lấn chiếm ra khu vực Rạch Bắp – Dầu Tiếng, trên đường 14 và Long Nguyên – Minh Hòa và co cụm lại ở khu vực sở cao su Dầu Tiếng, Bến Tranh. Vào giữa tháng 1-1973, các trung đoàn 14 và 209 tổ chức thành nhiều hướng, tiến công vào lực lượng Chiến đoàn 8 quân đội Việt Nam Cộng hòa ở Bến Tranh, buộc địch phải tháo chạy sau khi 478 tên bị loại khỏi vòng chiến đấu, khiến đối phương không còn đủ sức mở những cuộc hành quân tái chiếm Lộc Ninh và những vùng đã mất.

Trải qua hơn 10 tháng liên tục tiến công, ngày 19-1-1973, chiến dịch Nguyễn Huệ đã kết thúc thắng lợi. Bằng những nỗ lực phi thường, kiên trì khắc phục mọi khó khăn gian khổ, quân dân miền Đông Nam Bộ đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 13.000 quân Sài Gòn (bắt 5.381 tên). Trong quá trình diễn ra chiến dịch, Quân giải phóng miền Nam đã 4 lần đánh phá tổng kho Thành Tuy Hạ, 5 kho lớn ở Biên Hòa, Long Bình, Tân Sơn Nhất, phá hủy 7 dàn ra-đa, 1081 xe quân sự, bắn chìm 201 tàu, phá 96.000 tấn bom đạn, 5.000 tấn chất độc hóa học, 74 triệu lít xăng, dầu; bắn rơi, phá hủy 897 máy bay, thu 282 xe quân sự (có 12 xe tăng), 45 pháo, 6.837 súng các loại, 433 máy thông tin, 24 máy nổ, 13.746 đạn pháo, hơn 50.000 đạn cối, rốckét chống tăng. Thành công của chiến dịch đã hình thành nên một khu vực giải phóng rộng lớn trên hướng chiến lược xung yếu ở tây bắc Sài Gòn, làm thay đổi cục diện chiến trường miền Đông Nam Bộ, góp phần vào thắng lợi chung của cuộc tiến công chiến lược 1972. Thắng lợi của chiến dịch Nguyễn Huệ là thành công của chủ trương chiến lược đúng đắn, kịp thời, táo bạo của Trung ương Đảng, là kết quả sự chỉ đạo tích cực, sâu sát, sáng tạo của Quân ủy Miền và Bộ Tư lệnh chiến dịch, tinh thần quyết chiến, quyết thắng cùng những nỗ lực chưa từng có của quân dân ta trên chiến trường miền Đông Nam Bộ.

LÊ MINH NAM (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)