QĐND - Từ lúc chập chững lớp vỡ lòng, tôi thấy người lớn trong xóm hay nói đến cụm từ “Mồng Hai tháng Chín” với vẻ hân hoan. Lớn hơn một chút, được cô giáo giảng bài “Tuyên ngôn Độc lập” in trong sách tập đọc lớp 2, có hình Bác Hồ đứng trước mi-crô, tôi hiểu ngày 2-9-1945 là Ngày Quốc khánh, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; sau ngày Quốc khánh 2-9 ít hôm là đến khai giảng năm học mới.

Những năm đầu cắp sách đến trường, tôi háo hức mong đến ngày Quốc khánh 2-9 để được bố cho lên thị xã Hải Dương, cách làng tôi 10 cây số xem triển lãm. Tôi nhớ nhất ngày 2-9-1963. Hôm ấy, bố tôi cho chị em tôi lên thị xã từ sớm tinh mơ. Cùng đi bộ với bố con tôi có người cậu, cũng là hàng xóm của gia đình tôi là Nhữ Quang Trung và anh Phạm Xuân Lương, gọi bố tôi bằng chú họ.

Năm ấy, thị xã có triển lãm ở khu cổng Nhà máy sứ Hải Dương, cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay. Một băng rôn đỏ dài hơn 10m, nổi bật chữ vàng: “Triển lãm thành tựu thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất”, hàng hóa trưng bày sáng choang. Trên đỉnh cổng chào, chiếc loa phóng thanh phát giọng ca nữ: “Việt Nam đất nước quê hương chúng tôi…”, rồi ngâm thơ: “Cờ bay, lòng cũng bay/ Người hát, đường cũng hát/ Già trẻ gái trai say/ Năm cộng hòa thứ nhất…”. Bố tôi bảo, đó là những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu có từ hồi cách mạng thành công.

Xem triển lãm xong, chúng tôi đến bách hóa tổng hợp. Ở đó, chủ yếu là các mặt hàng thủ công nghiệp phục vụ sinh hoạt, học tập… Dòng người đông chật kín bách hóa, không ai bảo ai, mọi người trật tự nghe tiếng loa: “Đồng bào chú ý thực hiện nếp sống văn minh. Ai đến trước mua trước. Ai đến sau mua sau. Không chen lấn xô đẩy mất trật tự”. Bố tôi xếp hàng mua được chục bát sứ “đóng” trong dây cói buộc chữ thập. Thấy một cái bát có chút nứt gần miệng, ông cẩn thận lấy nó ra, xin đổi cái khác. Cô bán hàng mặc áo sơ mi trắng, hồn hậu đặt chiếc bát lên bàn tay trái rồi búng búng vào thành bát, tiếng kêu coong coong, chứng tỏ vết nứt chín, chứ không phải bị vỡ. Cô tươi cười nói: “Nước mình đã làm được đồ dùng, nhưng vẫn còn thiếu. Bà con ta dùng tạm hàng thứ phẩm, dành dụm để kiến thiết. Nay mai đất nước thống nhất, lên chủ nghĩa xã hội ta không thiếu thứ gì…”. Bố tôi vui vẻ xách chục bát, đưa chúng tôi đi mua vở, thước kẻ, bút chì và quyển họa báo, bìa có hình phi công vũ trụ Ga-ga-rin cười rất tươi.

Ngày Quốc khánh năm sau, bố tôi lại cho chị em tôi đi chơi trên thị xã, nhưng lần này vắng hai người cùng đi lần trước: Anh Lương đã đi bộ đội, còn ông Trung thì bận việc nhà. Năm 1968, ông Trung cũng nhập ngũ, sau đó cả hai người đều hy sinh ở chiến trường miền Nam.

Giờ đây, mỗi dịp Quốc khánh 2-9, trong tôi luôn trào dâng những xúc cảm về đất nước độc lập tự do, đấu tranh kiên cường, bảo vệ thành quả cách mạng và phát triển. Và tôi luôn nhớ về Ngày Quốc khánh năm 1963, nhớ các liệt sĩ Nhữ Quang Trung và Phạm Xuân Lương, cùng những người con ưu tú của làng tôi đã hy sinh để giành và giữ độc lập, tự do cho Tổ quốc.

PHẠM XƯỞNG