QĐND - Đồng hành với cuộc kháng chiến chống Pháp được kết thúc bởi Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 60 năm về trước, văn học nghệ thuật của nước Việt Nam độc lập non trẻ khi đó đã có những chuyển biến to lớn, thực sự vị nhân sinh, để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật sống mãi với thời gian.

“Nhận đường” gian lao

Thế hệ văn nghệ sĩ đi theo cách mạng, lao mình vào cuộc kháng chiến chống Pháp có thể chia làm hai lớp người. Thứ nhất là những văn nghệ sĩ nổi tiếng từ trước năm 1945 như: Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao...; Thứ hai, những người còn lại tuổi đời ít hơn một chút, được sống và sáng tác phục vụ nhân dân thì tài năng của họ mới tỏa sáng như: Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Chính Hữu, Trần Đăng, Đỗ Nhuận, Văn An, Hoàng Vân...

Về tuổi tác giữa hai lớp văn nghệ sĩ này không quá cách biệt nhưng nhận thức về nhân sinh quan, thế giới quan thể hiện trong tác phẩm rất khác nhau. Đọc thơ Xuân Diệu cùng với Nguyễn Đình Thi, nghe nhạc Văn Cao sau đó nghe các bài hát của Đỗ Nhuận..., ai cũng công nhận là hay nhưng mỗi người lại có cái kiểu hay riêng. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã có sự "tăng tốc", khiến những đỉnh cao nghệ thuật được hình thành trong một khoảng thời gian ngắn. Thêm vào đó, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và không lâu sau đó Toàn quốc kháng chiến nổ ra, đã có ảnh hưởng lớn đến tâm tư tình cảm của mỗi nghệ sĩ khiến họ hiểu, không thể viết và sống như trước được.

Một số văn nghệ sĩ tiêu biểu tại Chiến khu Việt Bắc. Hàng ngồi, từ trái qua phải: Nguyễn Đình Thi (đầu tiên), Nguyên Hồng (thứ ba), Nam Cao (thứ tư); hàng sau từ phải qua trái: Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Trung Thông, Chế Lan Viên... Ảnh tư liệu

Có thể khẳng định, việc nước nhà độc lập sau hơn 80 năm dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã mang lại niềm cảm hứng lớn lao cho người nghệ sĩ. Chẳng ai bảo ai, mọi nghệ sĩ đều lao vào làm công việc sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Hội Văn hóa Cứu quốc mà không cần phải vận động quá nhiều. Xuân Diệu viết ngay hai tác phẩm dài hơi là “Ngọn quốc kỳ” (1945) và “Hội nghị non sông” (1946). Văn Cao có ngay ca khúc nổi tiếng “Chiến sĩ Việt Nam”. Các họa sĩ vẽ tranh cổ động, vẽ tiền, vẽ tem... phục vụ cách mạng. Với những nghệ sĩ trẻ, cuộc cách mạng xã hội đã kích thích họ làm cuộc cách mạng sáng tác, đặc biệt là các nhà thơ với những bài thơ nổi tiếng như: “Đôi mắt người Sơn Tây” và “Tây Tiến” của Quang Dũng, “Đèo Cả” của Hữu Loan, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh...  Thực sự các nghệ sĩ từ trong tiềm thức đã có nhận thức “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy...” như lời Bác Hồ căn dặn.

Ở đây, cần phải lưu ý, các nghệ sĩ trưởng thành trong kháng chiến có tác phẩm thực sự mới mẻ hơn, nhiều chất sống hơn so với các nghệ sĩ nổi tiếng trước cách mạng. Nếu chỉ xét quy luật thông thường trong nghệ thuật là đã thạo “bếp núc” nghề nghiệp, vốn sống phong phú lẽ ra phải viết hay hơn mới đúng, đằng này các nghệ sĩ thành danh trước 1945 lại bắt nhịp sáng tác khá chậm. Các nhà nghiên cứu văn học sử đã lý giải điều này tường tận. Nguyên do là vốn quen với việc sáng tác tự do theo đuổi cách tân nghệ thuật là chính và phục vụ chủ yếu cho lớp người thành thị, ngợi ca cái tôi; nay lại chuyển sang phục vụ đông đảo quần chúng, với phong cách nghệ thuật hướng về đại chúng, từ bỏ cái tôi để hướng về tập thể; nhiều nghệ sĩ đã lúng túng không biết sáng tạo thế nào. Ngay cả Nam Cao-một nhà văn trước cách mạng đã thành công viết về người nông dân bị áp bức bóc lột dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, đã thổ lộ sự bế tắc sáng tạo trong tác phẩm “Nhật ký ở rừng” là “luôn mấy năm nay không viết được một tác phẩm nào khiến cho các bạn tôi nhắc nhở”.

Chưa kể, nhiều văn nghệ sĩ vẫn chưa thay đổi nhận thức triệt để, có những sáng tác chệch theo định hướng văn nghệ kháng chiến. Sau nhiều cuộc sinh hoạt, đặc biệt là Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc tháng 9-1949, đại đa số các văn nghệ sĩ tán thành việc sáng tác văn nghệ phải hợp với đại chúng, cần tìm hiểu đời sống quần chúng công nông binh mới mong sáng tác được những tác phẩm phản ánh sinh động hiện thực cuộc kháng chiến lúc bấy giờ. Như trong bút ký nổi tiếng “Nhận đường”, nhà văn Nguyễn Đình Thi xác định rõ: “Văn nghệ phụng sự chiến đấu, nhưng chính kháng chiến đem đến cho văn nghệ một sức sống mới. Sắt lửa mặt trận đang đúc nên văn nghệ mới của chúng ta”.

Như vậy, việc thay đổi lập trường, quan điểm sáng tác của các nghệ sĩ thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp là một quá trình “lột xác” (chữ của nhà văn Nguyễn Tuân) thật chẳng dễ dàng. Nhưng với lòng yêu nước nhiệt thành, muốn đem tài năng nghệ thuật phục vụ đất nước, các nghệ sĩ đã hòa mình vào các đoàn quân, các làng bản, “ba cùng” với quân và dân để bắt đầu có những sáng tác có chất lượng nghệ thuật cao.

“Chín năm làm một Điện Biên...”

Bên cạnh sáng tác những tác phẩm phục vụ kịp thời nhiệm vụ tuyên truyền, nhiều nghệ sĩ đã ý thức đầu tư cho những tác phẩm nghệ thuật thật sự nghiêm túc, dài hơi, có chất lượng về cuộc kháng chiến chống Pháp. Điển hình là trường hợp danh họa Tô Ngọc Vân đã để lại hàng trăm bức ký họa sau khi hy sinh trên đường tới Mặt trận Điện Biên Phủ. Xem những bức ký họa của ông, ta thấy một sự chăm chú nghiên cứu kỹ lưỡng hình thể người nông dân đi tản cư ra sao, tư thế vận động trên chiến trường của người chiến sĩ thế nào... Các họa sĩ khác cũng làm việc tương tự như Tô Ngọc Vân để rồi sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi đã xuất hiện những tác phẩm xuất sắc, mà đỉnh cao là bức tranh sơn mài “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” (1956) của danh họa Nguyễn Sáng, vừa được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia. Bức tranh hoàn hảo ở bố cục, xử lý màu sắc, xứng đáng là bức tranh tiêu biểu cho chủ nghĩa hiện thực, khác xa những bức tranh theo trường phái lãng mạn trước năm 1945.

Một thể loại sớm gặt hái thành tựu từ sớm, thực sự đổi mới triệt để là thơ. Trong khi các nhà thơ của phong trào Thơ Mới như: Huy Cận, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Nguyễn Xuân Sanh..., phải chờ mãi tới thập niên 1960 mới bắt đầu sáng tác mới và hay; thì một loạt các nhà thơ trẻ đã đồng loạt làm mới thơ ca Việt. Phong trào Thơ Mới có nhiều phong cách, nhiều trường phái nhưng bao trùm là sự lãng mạn, lấy cái tôi làm trung tâm, vần điệu du dương đầy tính nhạc, hình thức chuộng sự cân đối hài hòa. Thơ chống Pháp ngược lại, sôi sục ý chí chiến đấu, từ bỏ mọi sự hài hòa mà tự do phóng túng phá dòng, không vần, trở nên gai góc như mấy câu thơ trong bài “Đèo Cả” (1946) của Hữu Loan:

Áo phai

      màu chiến trường

Gian nguy

      lòng không nhạt

Căm thù

      trăm năm xa

Máu thiêng

      sôi dào dạt.

Và không thể không nhắc đến tập thơ “Việt Bắc” (1954) của “lá cờ đầu thơ ca cách mạng” Tố Hữu. Với những bài thơ như: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Việt Bắc”, “Bầm ơi!”, “Cá nước”, “Ta đi tới”, “Phá đường”... Tố Hữu thực sự tài năng khi bám sát thời sự bằng thơ, kế thừa tính nhạc của thơ lãng mạn kết hợp vận dụng ca dao, dân ca khiến thơ trở nên dễ thuộc, dễ hiểu. Tố Hữu đã tạo ra một loại thơ mới là “thơ trữ tình chính trị” như cách gọi của GS Trần Đình Sử, có ảnh hưởng lâu dài đến mọi nhà thơ cách mạng Việt Nam về sau.

Cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm cuối cùng đã giành thắng lợi hoàn toàn với sự kiện quân và dân ta đánh bại Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đứng trước sự kiện "chấn động địa cầu", âm nhạc như được thổi một sinh khí mới, bỗng vươn lên giành lấy đỉnh cao nghệ thuật sau cùng, với việc ra đời hàng loạt ca khúc nổi tiếng như: “Hành quân xa”, “Trên đồi Him Lam”, “Chiến thắng Điện Biên” của Đỗ Nhuận; “Hò kéo pháo” của Hoàng Vân... Từ chính những ca khúc về Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã định hình cho âm nhạc cách mạng Việt Nam hướng đến khuynh hướng sử thi, hùng tráng, đậm chất hiện thực, khắc họa rõ nét nhân vật chính của thời đại là người chiến sĩ Việt Nam gan dạ, anh dũng nhưng rất đỗi gần gũi.

Có thể nói, đi cùng với kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng ở trận Điện Biên Phủ, văn học nghệ thuật nước ta đã thực sự trưởng thành, tạo thành một hệ hình sáng tác mới với những quy chuẩn trong sáng tác, góp phần tạo ra nền tảng cho sự lớn mạnh của văn nghệ thời kỳ chống Mỹ sau này.  Vừa tìm cách đổi mới dựa vào sự kế thừa những hạt nhân còn hợp lý của nền văn nghệ thời kỳ trước là bài học mà văn nghệ chống Pháp để lại cho các văn nghệ sĩ hậu bối hôm nay. Và trên hết, dù thời đại đã thay đổi nhưng những tác phẩm nghệ thuật thời kỳ chống Pháp vẫn được yêu thích, đó là minh chứng hùng hồn nhất cho tài năng của một lớp văn nghệ sĩ có lòng yêu nước nồng nàn.

HÀM ĐAN