QĐND - Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc kháng chiến trường kỳ nhất, gian khổ nhất và cũng khốc liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của nhân dân ta. Vì Mỹ là một đế quốc giàu có, tiềm lực quân sự mạnh nhất thế giới, đóng vai trò sen đầm quốc tế, với tham vọng cái gì Pháp không làm được ở Việt Nam thì Mỹ sẽ làm và sẽ đưa biên giới của nước Mỹ đến Vĩ tuyến 17 của Việt Nam. Vì vậy, sau khi phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, chúng tiến hành một loạt chiến lược chống Việt Nam, từ Chiến lược Chiến tranh thực dân kiểu mới đến Chiến lược Chiến tranh đặc biệt, nhưng liên tiếp bị thất bại. Cuối năm 1965, đầu năm 1966, Mỹ ồ ạt đưa quân và các phương tiện chiến tranh, kéo theo nhiều nước chư hầu đổ bộ vào miền Nam Việt Nam cùng ngụy quyền, tay sai tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ quy mô lớn, đặt Việt Nam đứng trước cuộc đối đầu lịch sử lớn nhất trong công cuộc chống xâm lược của dân tộc.

Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhân dân cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến với tinh thần quyết đánh và quyết thắng Mỹ. Miền Bắc - "hậu phương lớn" với tinh thần "tất cả cho tiền tuyến", "tất cả vì miền Nam ruột thịt", "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", "thanh niên ba sẵn sàng”, "phụ nữ ba đảm đang”, học sinh, sinh viên cùng với các nhà giáo tạm xếp bút nghiên lên đường ra trận.

Trên chiến trường miền Nam, Mặt trận B5 Đường 9 Bắc Quảng Trị trực thuộc Bộ đã trở thành nơi đọ sức quyết liệt nhất giữa một bên là đế quốc Mỹ-một hung nô thời đại cùng các nước chư hầu và ngụy quyền, tay sai, một bên là dân tộc Việt Nam bất khuất với ý chí cả nước lên đường, toàn dân ra trận. Các binh đoàn chủ lực lần lượt vào tham chiến, trong đó có Trung đoàn 45 Pháo binh là cụm pháo chủ lực của mặt trận, tham gia liên tiếp các chiến dịch lớn. Đoàn 5 Pháo binh Quân giải phóng Bắc Quảng Trị (phiên hiệu của Trung đoàn 45) đã thành tên gọi thân thương, tin yêu của nhân dân và là nỗi khiếp sợ của Mỹ-ngụy, với những chiến công nổi bật:

Pháo binh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Quảng Trị 1972. Ảnh tư liệu

Chiến dịch Hè-Thu 1967: Trung đoàn làm Lễ xuất quân trên đất Tổ Hùng Vương, cán bộ, chiến sĩ cùng nhau hứa với Bác Hồ kính yêu, quyết tâm phát huy truyền thống “Tất Thắng”, truyền thống “Điện Biên” vào Nam chiến đấu, Trung đoàn 45 mở đầu đánh Mỹ bằng hỏa tiễn mang vác ĐKB (Ca-chiu-sa của Liên Xô), vừa đánh độc lập, vừa chi viện trực tiếp cho Trung đoàn Bộ binh Sư đoàn 324. Đánh tiêu diệt và tiêu hao nhiều tiểu đoàn thủy quân lục chiến Mỹ, biệt động ngụy, làm nên những chiến thắng vang dội ở Gio Linh, Cam Lộ, Cồn Tiên, Miếu Bái Sơn và Hồ Khê. Đánh bại cuộc càn quét của quân Mỹ, tiêu diệt và bắt sống một số xe tăng của chúng… thêm minh chứng là ta dám đánh Mỹ và có thể đánh thắng quân Mỹ, tạo bàn đạp để các lực lượng bám trụ và phát triển phong trào chiến tranh nhân dân Đường 9 Bắc Quảng Trị.

Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 - Mặt trận Khe Sanh - Hướng Hóa: Cùng quân và dân miền Nam tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968, suốt hơn 100 ngày đêm cùng các binh đoàn chủ lực và bộ đội địa phương thực hiện chiến dịch nghi binh chiến lược. Đã hiệp đồng tổ chức những trận đánh lừng danh, chi viện cho các Sư đoàn 304, 325 và Sư đoàn 308 bao vây tiêu hao và tiêu diệt sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ tại lòng chảo Khe Sanh; tiêu diệt tiểu đoàn lính ngụy tại cứ điểm Làng Vây, bắt sống nhiều tù binh, có cả trung đội cố vấn Mỹ, độc lập tập kích và chi viện bộ binh đánh bại sư đoàn kỵ binh bay ra ứng cứu. Liên tục đánh độc lập, mở đầu là những trận đánh tập kích pháo mãnh liệt vào sân bay Tà Cơn-nơi có sở chỉ huy hành quân, trung tâm thông tin, kho vũ khí và nhiên liệu, tiêu diệt nhiều sinh lực cao cấp, phá hủy, phá hoại nhiều máy bay và phương tiện chiến tranh mấy ngày trước Tết Mậu Thân, thu hút nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, tạo thuận lợi để cả đô thị toàn miền nổi dậy, làm tốt chức năng nghi binh của chiến dịch nghi binh.

Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào năm 1971, suốt 52 ngày đêm, Trung đoàn trở lại sử dụng pháo cơ giới truyền thống (Đ74) kết hợp dùng pháo hỏa tiễn, sức mạnh được nhân lên chi viện hiệu quả và kịp thời cho các đơn vị trong mặt trận 70 (B70) chủ lực của chiến dịch, cùng các sư đoàn tinh nhuệ của chiến trường thực hiện chiến dịch phản công, tiêu diệt gọn, xóa sổ nhiều đơn vị chủ lực ngụy được Mỹ chi viện tối đa về phi pháo; bắt sống nhiều tù binh trong đó có Đại tá Nguyễn Văn Thọ-Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn dù 3 ngụy; thu nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh. Riêng đơn vị tiêu diệt hơn 1.500 tên địch, phá hủy 11 sở chỉ huy, 90 pháo, 94 xe quân sự, 82 lô cốt; bắn rơi và bắn cháy 50 máy bay, 82 kho xăng, thu 5 pháo. Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào thắng lợi, đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ-ngụy, làm phá sản Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Chiến dịch giải phóng Quảng Trị 1972, Trung đoàn được giao nhiệm vụ làm thê đội hai chiến dịch và chiến đấu bảo vệ hành lang hướng biển và cuối tháng 4 vào chiến đấu trực tiếp chi viện cho bộ binh giải phóng Đông Hà, La Vang, Ái Tử, Cửa Việt, giải phóng tỉnh Quảng Trị. Trung đoàn đã chủ động, mưu trí, đánh độc lập, đánh hiệp đồng binh chủng, kể cả phát huy pháo bắn tỉa như ở Điện Biên Phủ, cùng bộ binh bám trụ kiên cường đánh địch phản kích. Suốt 81 ngày đêm, các tổ đài cảm tử, các trận địa anh dũng, ngoan cường chiến đấu cùng bộ binh bảo vệ Thành cổ, bảo vệ cảng Cửa Việt và các vùng trọng yếu của tỉnh, chấp hành và thực hiện hiệu quả, kịp thời việc phối hợp, hiệp đồng đánh trừng phạt khi Mỹ-ngụy đưa máy bay ra đánh phá miền Bắc, thủ đô Hà Nội ác liệt 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972. Với những chiến công xuất sắc, sau chiến thắng lịch sử Quảng Trị năm 1972, Trung đoàn 45 và Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân.

Có phải chúng ta “lao” vào Thành cổ là sai lầm, phải trả giá đắt bằng xương máu chiến sĩ để đổi lấy một thắng lợi “tượng trưng”? Không, chúng ta chiến đấu có tính toán, mưu lược, có mục tiêu. Quả thật trong chiến tranh, nếu so sánh tỷ lệ thương vong ở Thành cổ Quảng Trị thật là quá lớn, một sự đau thương và mất mát vô hạn, đến mức một cựu chiến binh đã viết: “Nhẹ bước chân và bước khẽ thôi/  Thành cổ rộng, sao đồng đội tôi nằm chật”. Kẻ thù buộc chúng ta phải cầm súng và khi người lính đã cầm súng là sẵn sàng chấp nhận hy sinh, nhưng chiến trường Thành cổ và thị xã Quảng Trị năm 1972 đã vượt xa sự ác liệt, vượt quá sự hy sinh. Tuy vậy, 81 ngày đêm chiến đấu khốc liệt với muôn vàn gian khổ, hy sinh nhưng rất vẻ vang, bởi vì chúng ta đã chiến thắng. Chính sự hy sinh, cống hiến của bộ đội ta tại thị xã và Thành cổ Quảng Trị đã làm rạng rỡ cho Tổ quốc Việt Nam vinh quang, làm nức lòng nhân dân thế giới, buộc Mỹ-ngụy phải chấp nhận thất bại, ký vào hiệp định đình chiến ở Pa-ri, mở đường cho “Mỹ cút, ngụy nhào”. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đã viết về Thành cổ: “Chúng ta đã chịu đựng được không phải là vì chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng chảy với bom đạn của chúng. Mà chính chúng ta là những con người, những con người thật sự-những con người Việt Nam với truyền thống 4000 năm, đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại”.

Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử Xuân 1975: Trung đoàn đã chuyển thành Lữ đoàn và tham gia chiến dịch trong đội hình Quân đoàn 1-Binh đoàn Quyết Thắng. Lữ đoàn 45 Pháo binh đã hành quân thần tốc với chặng đường 1.700km, chạy đua với thời gian, lao nhanh tới địa bàn chiến dịch, tham gia chiến đấu, chi viện cho Sư đoàn 312, tiêu diệt Sư đoàn 5 ngụy, giải phóng tỉnh Thủ Dầu Một, vượt ngầm Sông Bé tiến thẳng vào nội đô Sài Gòn, chi viện cho Sư đoàn Đồng Bằng bắn những loạt đại bác cuối cùng vào Bộ Tổng tham mưu ngụy, góp phần kết thúc chiến dịch, giành thắng lợi hoàn toàn, thắng lợi oanh liệt nhất, hiển hách nhất trong sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Từ “Điện Biên” đến “Sài Gòn”, 21 năm trên đường chiến đấu, lớp lớp cán bộ, chiến sĩ vượt lên muôn vàn khó khăn, gian khổ ác liệt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Trung đoàn Pháo binh Tất Thắng đã xây dựng và phát huy rực rỡ truyền thống “Chân đồng vai sắt, đánh giỏi bắn trúng” và truyền thống “Quyết chiến, Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 10-1976, Đại đội 806 được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân. Tiểu đoàn 2 của Lữ đoàn và Lữ đoàn 45 Pháo binh được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực LLVT nhân dân. Năm 2005, thời kỳ đổi mới, Lữ đoàn 45 anh hùng lại được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân lần thứ hai.

Trong chiến tranh, chúng ta chiến đấu vì không chịu mất nước, trong hòa bình, chúng ta lại bước vào trận tuyến mới vì không chịu đói nghèo. Trong công cuộc đổi mới hôm nay, chúng ta luôn luôn phấn đấu giữ gìn và phát huy phẩm chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Lữ đoàn Tất Thắng có nhiều người trở thành tướng lĩnh, doanh nhân thành đạt, có người trở thành giáo sư, tiến sĩ, thành bác sĩ, kỹ sư… đang làm việc trong các cơ quan, xí nghiệp; phần lớn khác đã về với cuộc sống đời thường. Họ trở về địa phương lam lũ một nắng hai sương, có người phải chịu tàn phế suốt đời, thương tật, nhiễm chất độc da cam, mang nhiều bệnh tật hiểm nghèo và vết thương trong mình hành hạ lúc trái gió trở trời. Nhưng dù sao, chúng ta vẫn là những người còn may mắn hơn những đồng đội đã hy sinh, thậm chí còn nhiều liệt sĩ chưa tìm thấy phần mộ, đang là nỗi đau của mỗi gia đình, người thân và của chúng ta.

Vì vậy, chúng ta nguyện sống sao cho xứng đáng với các liệt sĩ, tiếp tục là người lính “Trung với Đảng, hiếu với dân”, vượt lên mọi khó khăn trong cuộc sống hiện tại, lạc quan, vững bước vào tương lai bằng ý chí kiên cường và lòng quả cảm, sự sáng tạo của mình như những chiến sĩ Điện Biên, những chiến binh Thành cổ năm xưa.

HOÀNG HẢI

Từ “Điện Biên” đến “Sài Gòn” (Kỳ 1)