QĐND - Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó, nội dung cơ bản là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Trong tư tưởng chỉ đạo kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân phải gắn với toàn diện. Để đánh bại chiến tranh tổng lực của kẻ thù, chúng ta phải dùng sức mạnh của toàn dân tộc, phải chú trọng xây dựng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao..., trong đó, sức mạnh về quân sự có vai trò quyết định, tạo đà, tạo thế cho các mặt trận khác phát triển; thực hiện khẩu hiệu: Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Mỗi mặt trận có vị trí, tác dụng khác nhau nhưng cùng thống nhất ở mục đích là tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi cuối cùng.
Mặt trận chính trị nhằm tuyên truyền, giáo dục, động viên chính trị sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ chủ trương, đường lối kháng chiến, kiến quốc; phát huy sức mạnh chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đập tan mọi luận điệu xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ của địch, làm cho kẻ thù bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo thuận lợi cho các mặt đấu tranh khác. Suốt 9 năm kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sức mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất trên nền tảng khối liên minh công, nông và trí thức; chăm lo xây dựng, củng cố chính quyền dân chủ của dân, do dân và vì dân, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng chiến và xây dựng chế độ mới; tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong kháng chiến; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở cả thành thị và nông thôn... Nhờ đó, Đảng ta đã quy tụ, tập hợp được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động viên, phát huy cao độ lòng yêu nước, yêu chế độ của nhân dân vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, tạo ra khả năng to lớn để huy động sức người, sức của, chi viện ngày càng nhiều cho tiền tuyến.
 |
Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của Quân đội Nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát. Ảnh tư liệu.
|
Trên mặt trận kinh tế, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chăm lo, bồi dưỡng sức dân, coi đó là cơ sở, nền tảng để huy động nhân tài, vật lực cho tiền tuyến. Suốt 9 năm kháng chiến, Đảng và Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm khuyến khích phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm trong nhân dân; ban hành nhiều sắc lệnh giảm tô, giảm tức, xóa nợ, chia lại ruộng đất cho nông dân sản xuất; nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, coi trọng xây dựng nền kinh tế tự cung, tự cấp; vừa ra sức xây dựng nền kinh tế kháng chiến phục vụ những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, vừa phát triển công nghiệp quốc phòng chế tạo trang bị, vũ khí cho quân đội, đáp ứng những yêu cầu ngày càng lớn cho chiến trường. Đến năm 1953, khi cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn quyết liệt, Đảng quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến hành cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách ruộng đất đã tạo động lực mạnh mẽ, củng cố lòng tin, ý chí và quyết tâm của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, góp phần tăng cường sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần cho kháng chiến; cổ vũ, động viên hàng vạn chiến sĩ cùng hàng chục vạn người đang phục vụ kháng chiến ngoài mặt trận.
Được Đảng và Chính phủ chăm lo về mọi mặt, nhân dân khắp mọi miền đất nước vừa tích cực tham gia kháng chiến, vừa tích cực sản xuất, đóng góp sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, với ý chí: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, đồng bào các dân tộc trong cả nước, đặc biệt là đồng bào Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 đã đóng góp hơn 260.000 dân công (khoảng 14 triệu ngày công), hơn 20.990 xe đạp thồ và hàng chục nghìn phương tiện vận chuyển thô sơ. Về bảo đảm vật chất, đồng bào đã đóng góp cho chiến dịch 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng nghìn tấn thực phẩm khác. Đó là kết quả tuyệt vời về huy động sức mạnh của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trên mặt trận văn hóa-giáo dục, nhằm phục vụ kháng chiến, phục vụ đời sống của các tầng lớp nhân dân, Đảng chủ trương vừa đánh đổ văn hóa ngu dân, nô dịch, ngoại lai, phản động, vừa xây dựng nền văn hóa mới của nước Việt Nam độc lập theo ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng, tạo tiền đề và cơ sở để tiến lên xây dựng nền văn hóa mới, tiến bộ. Nền giáo dục mới không ngừng phát triển, đạt được mục tiêu là đào tạo con người mới, nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là xây dựng được đội ngũ cán bộ, trí thức có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Hoạt động văn hóa, nghệ thuật được đẩy mạnh, góp phần nâng cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, yêu chế độ mới, cổ vũ, động viên quân và dân ta vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đồng tâm, dồn sức cho chiến thắng. Trong 9 năm kháng chiến, nhất là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, mặt trận văn hóa đã có những đóng góp xứng đáng.
Trên mặt trận quân sự, để động viên toàn dân thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng xây dựng thế trận “cả nước đánh giặc” với khẩu hiệu “mỗi người dân là một chiến sĩ”, “mỗi làng xóm là một pháo đài”... Lực lượng dân công, dân công hỏa tuyến, thanh niên xung phong được tổ chức thành các đơn vị vừa chiến đấu, vừa bảo đảm giao thông vận tải, tham gia phục vụ các trận đánh, chiến dịch.
Thực hiện chủ trương động viên toàn dân, vũ trang toàn dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp, tổ chức lực lượng vũ trang truyền thống của dân tộc đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển, nâng cao về chất trong tổ chức ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tự vệ. Mỗi thứ quân được xác định chức năng, nhiệm vụ, vai trò riêng, nhưng lại có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Sự hỗ trợ giữa ba thứ quân chính là sự phối hợp giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, tạo ra thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp. Cách tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính chất toàn dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng và lãnh đạo.
Thế trận toàn dân đánh giặc, lấy LLVT làm nòng cốt của ta phát triển ngày càng vững chắc, rộng khắp, khiến đội quân xâm lược không chỉ phải đối mặt với bộ đội chủ lực mà còn phải đối diện với thế trận toàn dân đánh giặc, đi đến đâu cũng bị đánh, lực lượng bị hao mòn, ý chí chiến đấu giảm sút. Tướng Na-va đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc”[1]
Đi đôi với dùng sức mạnh quân sự, tiêu diệt địch trên chiến trường, công tác binh vận đã góp phần làm cho nhân dân, binh lính địch hiểu rõ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, thấy được sự phi nghĩa, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh xâm lược mà thực dân Pháp đang tiến hành. Nhờ đó đã góp phần làm tan rã hàng ngũ địch, hạn chế thấp nhất tổn thất của nhân dân ta trong chiến tranh.
Phối hợp với đấu tranh quân sự, trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tạo mặt trận đoàn kết nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Ngày 21-7-1954, các văn kiện của Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Pháp phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân về nước, phải công nhận độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Do sớm đề ra và tổ chức thực hiện thành công đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng ta đã khơi dậy, phát huy được tinh thần yêu nước, tính năng động, sáng tạo của nhân dân trên các mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa...; quy tụ, tập hợp được sức mạnh to lớn của nhân dân từ Bắc đến Nam, từ miền xuôi đến miền ngược, từ thành thị đến nông thôn, từ vùng tự do đến vùng tạm bị chiếm; từ hậu phương đến tiền tuyến...; phát huy được sức mạnh của các yếu tố nội lực, truyền thống và con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc.
Thắng lợi của ta trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ đã khẳng định, đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đường lối đó đã được lịch sử hai cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN kiểm nghiệm, chứng minh là hoàn toàn đúng đắn, vẫn còn nguyên giá trị lý luận, thực tiễn trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
TRẦN ANH TUẤN và LÊ MẠNH TIẾN (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)