QĐND Online - Phải mất một hồi tìm kiếm, tôi mới đến được nhà Đại tá Nguyễn Thế Trường, nguyên Trung đội trưởng Pháo cao xạ thuộc Đại đội 817, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367, trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Ngôi nhà nằm sâu trong ngõ 119, Hồ Đắc Di thuộc khu tập thể Nam Đồng, Đống Đa, Hà Nội.

Tiếp tôi trong căn phòng được quân đội cấp khi còn đang tại ngũ, ông cho biết, trước kia ông đã từng phụ trách Tờ tin của Quân chủng Phòng không (năm 1961-1962), sau đó đi học Trường Chính trị Trung cao và được điều về làm phóng viên Báo Quân đội nhân dân. Năm 1967, ông về làm Tổng biên tập Báo Quân giải phóng Trung Trung bộ (nay là Báo Quân khu V). Đến năm 1973, ông về Tổng cục Chính trị công tác cho đến năm 1991 thì nghỉ hưu.

Đưa cho tôi xem tập bản thảo những bài viết về kỷ niệm và chiến công của đơn vị mình trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông bảo, mình phải viết những gì mình biết, những gì tận mắt chứng kiến để cho con cháu sau này biết về lịch sử hào hùng và những đóng góp của các thế hệ đi trước….

Kéo pháo vào Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

Rồi giọng ông trở nên sôi nổi hơn khi nhắc lại những khoảnh khắc ác liệt 60 năm về trước. Ngày đó, ông mới 23 tuổi, được cấp trên bổ nhiệm từ Phó trung đội trưởng pháo binh sang làm Trung đội trưởng pháo cao xạ thuộc Đại đội 817, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367. Nhớ nhất là đợt ông cùng đồng đội kéo pháo ra.

Ông kể: Kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa đã vất vả khổ cực rồi, nhưng kéo pháo ra còn gay go, gian khổ hơn nhiều. Dốc “Bảy tời”, trước đây chỉ có cuộn dây đưa pháo lên thì nay lại từ từ thả dây dòng pháo xuống. “Dốc Chuối” hôm nào ghìm dây thả pháo từ từ thì nay còng lưng đẩy ngược pháo lên. Một khó khăn lớn là tư tưởng bộ đội khi mới nhận lệnh kéo pháo ra rất hoang mang. Chính ông cũng không hiểu vì sao phải kéo ra. Ông đã lên gặp trực tiếp Đại đội trưởng Trần Thọ Vệ để hỏi và được giải thích: “Địch thay đổi kế hoạch thì kế hoạch tác chiến của ta cũng phải thay đổi. Đồng chí cứ hoàn thành tốt nhiệm vụ đi”.

Tuy chưa thông nhưng ông vẫn hạ lệnh cho các khẩu đội “thu pháo”. Các pháo thủ đứng tần ngần chưa muốn đậy nắp nòng lại, chưa buồn nhấc những viên đạn đã lau để xếp vào hòm. Có đồng chí giận giữ hét: “Sao chúng ta không đánh luôn mà phải rút?”

Ông giải thích: Trên thông báo tình hình địch đã thay đổi, ta phải chủ động chuyển kế hoạch để chuẩn bị điều kiện trở vào lần thứ hai được thắng lợi chắc chắn hơn. Mệnh lệnh của trên chúng ta phải tuyệt đối chấp hành…

Nghe xong, mọi người bắt tay vào nhiệm vụ không một lời kêu ca. Tuy nhiên, trên đường kéo pháo ra mới thấy thực sự gian khổ. Lá ngụy trang trên đường kéo pháo vào giờ đây đã vàng úa. Quân thù “đánh hơi” thấy quân ta ngày đêm vận động trên con đường tiến tới để diệt chúng, nên phi pháo của chúng luôn “làm mưa, làm gió” hòng tiêu diệt bằng được lực lượng pháo binh của ta. Ác liệt nhất vẫn là khu vực “Dốc Chuối”. Đây là địa điểm máy bay quần thảo suốt ngày. Chúng trút xuống đây không biết bao nhiêu bom nổ chậm. Nhưng khi máy bay vừa rút thì các chiến sĩ công binh lại tràn ra mặt đường dùng thuốc nổ phá tung những trái bom, hoặc rúc ngược mình xuống hố sâu tháo kíp bom. Khi đã “quét” sạch bom, họ lại cấp tốc sửa sang, cạp lại đường cho pháo đi qua.

Ông còn nhớ như in khi Trung đội của ông kéo pháo đến “Dốc Chuối”. Đây là đoạn dốc cao nhất, mặt dốc vừa hẹp lại vừa cong và độ nghiêng lớn. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ cố sức bấm chân, ghìm chặt từng đoạn dây kéo pháo. Khi pháo vừa lên được nửa dốc, đường kéo pháo bỗng lóe lên những ánh chớp xanh lẹt. Đạn pháo địch rót tới nổ chát chúa, mảnh đạn phạt gãy cành cây răng rắc. Chỉ cần vài người mất bình tĩnh, buông tay khỏi dây kéo, khẩu pháo sẽ lao ngay xuống vực. Nhưng cả dòng người vẫn bám chắc dây kéo pháo, không ai rời vị trí. Cuối cùng pháo cũng lên được đến đỉnh dốc và hành quân về địa điểm tập kết an toàn. Cũng tại địa điểm này, liệt sĩ Tô Vĩnh Diện đã quên thân mình cứu pháo. Tấm gương hy sinh của anh đã thôi thúc các cán bộ, chiến sĩ quyết tâm tiêu diệt giặc Pháp xâm lược. Và trong ngày 7-5-1954, ngày cuối cùng của chiến dịch, đơn vị ông đã bắn rơi hai chiếc máy bay thứ 61 và 62-chiếc máy bay cuối cùng của địch, trên bầu trời Điện Biên, góp phần vào Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cách đây vừa tròn 60 năm.

LƯƠNG KIÊN CƯỜNG