QĐND - Có thể nói như vậy đối với loại hình văn nghệ quần chúng đặc sắc và khá độc đáo: "Hò lờ" - một điệu hò tập thể phổ biến trong các đoàn dân công ở Bắc Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhất là trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Thoạt đầu chỉ là do dân công nghĩ ra và thực hành để nâng nhẹ bước chân, quên mệt nhọc. Do hoàn cảnh tạo nên, có khi trên đường tiếp vận lại gặp những đoàn bộ đội đang hành quân ra trận, thế là cùng hòa vào “chơi” hò lờ: "Bộ đội mà gặp dân công/ Như cá gặp nước, như rồng gặp mây"...

Tranh "Gặp nhau" của Mai Văn Hiến vẽ năm 1954, mô tả bộ đội gặp dân công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ.

"Hò lờ" được cất lên một cách hồn nhiên từ những người dân yêu nước, mà hầu hết là nông dân, đi tải lương, tiếp vận phục bộ đội chiến đấu ngoài mặt trận. Nó hồn nhiên chứ không phải tự nhiên, tùy tiện. Điều đó xuất phát từ một điều cao quý: Người dân yêu nước đi giúp nước. Trong điều kiện vận chuyển nặng nhọc, thời tiết khắc nghiệt, người dân công "hò lờ" để quên cái mệt, hướng tới cái tốt đẹp, nên câu hò không có lý gì mà không đẹp. Mặt khác, "hò lờ" dân công là sự tỏ lòng của những người đang “đồng tâm hiệp lực” để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất... Chính vì vậy, mặc dù "hò lờ" không phải là tác phẩm của nghệ sĩ hay diễn viên chuyên nghiệp, từ ngữ rất mộc mạc... nhưng lời nào cũng dễ nghe, câu nào cũng có ý tứ, chân thành và thiện ý, tạo niềm vui, đôi chỗ lãng mạn, rất đáng yêu.

Điều đặc biệt là sau mỗi câu hò, nhất là với hò đối đáp, thường xuất hiện những tiếng cười. Cười vì nội dung câu hò hóm hỉnh. Cười vì sự “thách thức” mà mình đang tạo cho bên đối sự bí tắc... Thú vị nhất là mỗi khi cất tiếng hò là quên hết mọi mệt nhọc, âu lo...

Lời "hò lờ" là những câu vần lục bát. Cao độ của giọng "hò lờ" thường vượt trên cao độ nốt đô trong âm nhạc. Nó phản ánh chính xác tâm trạng người dân công khi họ “hò lên cho đời chúng ta tươi!”. Vào cuộc hò, một người lĩnh xướng câu lục. Những người khác đồng thanh tiếp tiếng đế “Ai đi hò lờ”. Người lĩnh xướng tiếp 4 từ ở nửa đầu câu bát. Những người khác lại đồng thanh tiếp tiếng đế “Ai đi hò lờ”. Người lĩnh xướng tiếp 4 từ nửa cuối của câu bát. Tất cả đồng thanh tiếp vào “Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai đi hò lờ”. Cứ như thế, mỏi thì nghỉ. Vẫn còn muốn hò thì hò tiếp. Có khi hò suốt một chặng đường...

"Hò lờ" dân công có nhiều loại. Loại dành cho từng nhóm, hay từng đoàn cùng chung một nhiệm vụ. Thí dụ, đoàn dân công vượt đèo, hò rằng: “Đèo cao thì mặc đèo cao/ Ai đi hò lờ/ Ta lên đến đỉnh/ Ai đi hò lờ/ Ta cao hơn đèo/ “Hò lơ, hó lơ lắng tai nghe tiếng ai đi hò lờ” hay “Trời mưa ướt áo ướt quần/ Nhưng không ướt được tinh thần thi đua”...

Loại thứ hai là hò đối đáp giữa các bộ phận (thường là 2). Thí dụ: Một đoàn nữ dân công tay gánh vai gồng, gặp đoàn bộ đội hành quân ra mặt trận. Có vẻ như nữ dân công nghĩ nhiều đến chiến sĩ anh nuôi. Vì anh nuôi là số ít, lại thường hay có ý tự ti về công việc, không được trực tiếp giết giặc. Nữ dân công liền cất lên: “Trên đời em chẳng yêu ai/ Ai đi hò lờ/ Yêu anh bộ đội/ Ai đi hò lờ/ Gánh hai cái nồi/ Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai đi hò lờ”. Anh cấp dưỡng gánh nồi bị bất ngờ, đâm ra lúng túng. Lập tức, đồng đội ứng khẩu “mớm” cho, đáp: “Có nồi, nhưng chẳng có vung/ Ai đi hò lờ/ Dân công mà có/ Ai đi hò lờ/ Mình cùng úp nhau/ Hò lơ, hó lơ, lắng tai nghe tiếng ai đi hò lờ”. Tiếng cười rộn rã cả đôi bên...

Nội dung "hò lờ" khá phong phú, nhưng dân công Điện Biên Phủ do xa nhà nhiều ngày, đường dài nên thường đưa chuyện lứa đôi, chuyện vợ chồng ra vận vào hò trên các nẻo vận chuyển (có thể như thế để đỡ nhớ nhà chăng!). Nội dung này được vận dụng linh hoạt và khá hóm hỉnh. Tham gia hò thường gồm 3 thành tố: Dân công nữ, dân công nam (có thể trong cùng một đoàn, lại có cả những đôi vợ chồng) và bộ đội. Khi hò, do ý nghĩa từ nội dung câu hò phản ánh, đã tạo nên sự phân chia các bên để đối đáp.

Đầu tiên là dân công nữ. Các mẹ “sồn sồn” thường táo tợn “ra điều” trước. Có những câu trêu chọc rất hãnh diện, tạo cho anh bộ đội một niềm tin nơi hậu phương: "Đêm ngày mê mải chiến công/ Thoáng nom như có cả chồng em kia”; “Vịt gà nuôi béo nhốt lồng/ Chờ anh bộ đội lập công trở về”. Cười khúc khích. Bộ đội tinh nghịch, lợi dụng trận đánh thắng sau một đêm công đồn (đồn ấy du kích đã bám, chuẩn bị cho trận đánh 3 năm rồi), bắt nhời: “Ba năm du kích nằm kề/ Không bằng bộ đội “nó” về một đêm”. Đám dân công nam vừa buồn cười lại vừa “cú”, liền xử lý: “Lấy chồng thì lấy dân công/ Chớ lấy bộ đội, nằm không một mình”... Tất cả cùng cười vui vẻ. Nữ dân công trẻ được các anh chị khích lệ thì không dám “táo tợn” như đàn chị, mà rất tình cảm, rất thiết tha: “Anh đi gìn giữ nước non/ Tóc xanh em đợi, lòng son em chờ”. Tiếng hoan hô vang dậy xen lẫn tiếng cười... Bộ đội phải khẩn trương lên phía trước, giơ mũ vẫy chào: “Đi nhé, hẹn ở Điện Biên Phủ nhé”…

Cứ như thế. Đặc sản "hò lờ" đã góp phần vào sức mạnh toàn dân tộc để kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp với trận thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

PHẠM XƯỞNG