QĐND - Ông Nguyễn Quang Thuận, nguyên chiến sĩ Đại đội 815, Tiểu đoàn 383, Trung đoàn 367 thuộc Đại đoàn 351, kể lại: Ngày 14-1-1954, được lệnh, chúng tôi kéo pháo vào. Ban đầu đưa thử một khẩu pháo 105mm và 1 khẩu cao xạ 37mm. Cả hai đều lần đầu xuất trận. Pháo to, nặng, phải 30 người kéo một khẩu mới lên nổi các dốc. Người dàn thành hàng đôi, đứng hai bên sợi dây chão to, dài hàng chục mét. Để kéo pháo đi phải nhờ tới các đồng chí bộ binh, còn chúng tôi, các pháo thủ thì cầm chèn, hai bên, chèn bánh pháo. Đêm tối lại ở trong rừng, người chỉ huy phải mặc áo màu sáng, cầm miếng gỗ có lân tinh vừa dẫn đường, vừa chỉ huy. Mỗi lần chỉ huy hô: Hai… ba… nào, thì tất cả cùng dồn sức kéo pháo. Khi lên dốc cao, mỗi lần hô chỉ nhích được vài chục xăng-ti-mét. Mỗi đêm chỉ kéo pháo đi được vài cây số. Sau 9 đêm, đơn vị mới hoàn thành việc kéo pháo vào bố trí tại cánh đồng Na Hy, Bản Tấu. Căn cứ vào địa hình trên cánh đồng, chúng tôi ngụy trang bằng rơm, rạ, máy bay trinh sát địch không phát hiện được. Chúng tôi háo hức chờ lệnh chiến đấu, dự kiến vào lúc 17 giờ ngày 24-1-1954.

Pháo vào trận địa được một ngày một đêm, khẩu đội đã chuẩn bị các phần tử bắn. Nhưng rồi, lệnh trên truyền xuống: Hoãn tấn công! Kéo pháo ra! Như sét đánh ngang tai, ai nấy châng hẩng sửng sốt và tiếc công sức. Nhưng quân lệnh như sơn, mọi người phải tuân theo. Khi được cấp trên giải thích và chi bộ Đảng họp bàn, ra nghị quyết lãnh đạo “kéo pháo ra”. Điều đó đã biến ngay thành quyết tâm của mọi người.

Khi kéo pháo ra, tôi và đồng chí Sục khỏe hơn trong khẩu đội, được giao lái pháo. Khẩu pháo của chúng tôi đang di chuyển trên đoạn dốc khoảng 100m ở chỗ đường lượn vòng, bên vách núi dựng đứng, thì bất chợt có tiếng thét lớn từ phía trên: “Dây tời tuột. Dây tời tuột rồi!”. Càng pháo trên tay tôi lập tức lôi tôi đi theo nó nhanh hơn. Phía trên, nhiều người xúm vào giữ, nhưng vẫn bị pháo lôi đi. Các đồng chí chèn pháo lần lượt bị văng ra. Mọi người như đã bất lực không biết làm gì và đã nghĩ tới một tai họa sắp xảy ra.

Trong tình huống ấy, tôi tự nhủ phải thật tỉnh táo, bình tĩnh ứng phó. Tôi vẫn chạy theo pháo, lựa thời cơ, tôi dồn hết sức toàn thân dồn tới đôi tay, lái mạnh càng cho pháo lao về hướng có bờ cao, bên lề đường. Cả khối thép theo bánh xe lăn bị khựng lại trước bức tường ta luy bên sườn núi. Tôi trân trân đứng nhìn khẩu pháo. Sao lúc này nó hiền lành thế! Từ phía trên dốc, tiếng reo hò, mọi người chạy lại ôm lấy tôi.

Trong buổi tổng kết rút kinh nghiệm, đồng chí Loan, Chính trị viên tiểu đoàn đã tặng tôi bài thơ do anh sáng tác. Tôi nhớ 2 câu cuối là: “Hoan hô thành tích Nguyễn Quang Thuận/ Hành động anh hùng đẹp biết bao”. Đợt ấy, cấp trên đã thưởng tôi Huân chương Chiến công hạng nhì.

TRỊNH DŨNG