QĐND - Đó là hồi ức, cảm nhận của một số nhân chứng lịch sử đã chứng kiến thời khắc lịch sử: Ngày 30-4-1975 mà phóng viên Báo Quân đội nhân dân có dịp tiếp xúc, ghi lại nhân kỷ niệm 40 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu 4:

Cảm xúc dồn nén

Lúc đó tôi đang là Phó tham mưu trưởng Quân đoàn 3 cùng đồng chí Phi Tiểu Hoàng, Phó chính ủy Quân đoàn chỉ huy một mũi thọc sâu vào dinh Độc Lập. Trên đường hành quân, tiếng súng hai bên vẫn đang quyết liệt nhưng người bên đường cầm cờ xanh đỏ, sao vàng vẫy chào Quân Giải phóng, họ hân hoan, đón mừng và đưa thịt, trứng luộc, xôi lên xe tăng cho các chiến sĩ. Tôi ngồi trong xe chỉ huy mui trần, thấy một bà lão khoảng 75 tuổi bế đứa cháu xin được bắt tay bộ đội. Trong tôi cũng như bao người khác đều trào dâng cảm xúc nghẹn ngào, cảm xúc dồn nén sau hàng chục năm sống trong bom đạn. 12 giờ 30 phút, chúng tôi tới nơi thì dinh Độc Lập đã được Quân đoàn 2 giải phóng, chứng kiến cảnh rất nhiều lính Quân đội Sài Gòn mặc quần đùi, áo lót hay cởi trần, chân đất đi qua thành phố để trở về quê hương. Tôi nghĩ, sau 30 năm, Mỹ-ngụy mạnh là vậy nhưng bị sụp đổ nhanh chóng bởi sự thần tốc của Quân Giải phóng. Cùng dòng người chung vui giờ phút lịch sử ấy, nhưng trong tôi vẫn đau đáu một nỗi niềm về những người lính của mình đã ngã xuống. Để có hòa bình, độc lập, bao người con của dân tộc đã hy sinh, mãi mãi không được chứng kiến ngày lịch sử này.

CHÍ HÒA (lược ghi)

Luật sư Triệu Quốc Mạnh (từng công tác tại Ban Trí vận Khu ủy Sài Gòn-Gia Định):

Bộ đội ta rất đáng mến

Dù 40 năm đã trôi qua nhưng trong tôi vẫn vẹn nguyên cảm xúc bồi hồi của ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Chiến thắng ngày 30-4-1975 là một kết quả tất yếu. Chế độ cũ kéo dài và những cuộc đảo chính liên tục trong nội bộ ngụy quyền dẫn đến bất ổn trong xã hội, kìm kẹp tự do của con người. Hơn nữa, bọn chúng gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho nhân dân khi tuyên truyền, kích động, gieo vào suy nghĩ từ người lao động nghèo đến giới trí thức, công chức bộ máy ngụy quyền rằng “cộng sản là lực lượng tàn ác”. Điều đó cũng dễ hiểu vì phần lớn người Sài Gòn lúc đó sống nơi đô thị chưa từng biết và thấy lực lượng cách mạng như thế nào.

Tuy nhiên, điều người dân lúc bấy giờ xúc động nhất chính là sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức về hình ảnh Quân Giải phóng khi họ tiến vào Sài Gòn ngày 30-4-1975. Chiến sĩ Giải phóng quân có dáng vẻ bên ngoài giản dị, lam lũ và bên trong chứa đựng một tấm lòng nhân hậu cao cả. Đa số họ rất trẻ. Họ nhìn đám đông trên đường phố với một vẻ bỡ ngỡ. Hiển nhiên, người dân Sài Gòn cũng tò mò, nhưng không tìm thấy ở họ mảy may ánh mắt hận thù, trái với lời đồn đại kinh hoàng mà người dân thành phố được nghe trong những tuần lễ trước đó. Sau mấy phút lạ lẫm, người dân ùa ra đường chào đón Quân Giải phóng với cờ hoa trên tay. Từng lời nói, cử chỉ, hành động của bộ đội tạo được lòng tin, sự thân thiện, đánh tan những nghi ngờ, lo lắng của người dân Sài Gòn, nhất là giới trí thức, công chức bộ máy chính quyền cũ.

Chúng tôi thấy bộ đội hành quân vào nội đô vẫn mang theo củi, soong nồi, lương thực, giữ nghiêm kỷ luật, tôn trọng tài sản, không chạm đến bất cứ thứ gì của nhân dân, khác hẳn với hình ảnh hung bạo, ngang ngược của lực lượng cảnh sát, binh sĩ ngụy quyền trước kia. Bộ đội cũng đi chợ, đốt lửa nấu cơm tối trên các bãi cỏ công viên, giống hệt như họ vẫn làm thường ngày ở trong chiến khu hoặc trên đường hành quân. Rồi những ngày sau, bộ đội tạm thời đảm nhiệm giữ gìn an ninh trật tự các khu phố. Đi đến đâu, các anh cũng gặp gỡ, hỏi thăm, trò chuyện cùng mọi người. Càng tiếp xúc, chúng tôi cảm thấy bộ đội ta hiền lành, đáng mến quá!

Nhìn lại những tuyến đường, địa điểm của 40 năm trước đã đổi thay nhiều cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội, đô thị hóa của TP Hồ Chí Minh. Tuy vậy, hình ảnh gần gũi, thân thương của người chiến sĩ Giải phóng quân ngày ấy, chúng tôi vẫn nhớ như in. Chúng tôi rất mừng vì Quân đội ta ngày nay càng có uy tín cao đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, là lực lượng nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc.

HÙNG KHOA (ghi)

CCB Lê Việt Bình, nguyên sĩ quan biệt động Ban An ninh T4 (Sài Gòn-Gia Định):

“Thật rồi đâu phải chiêm bao!”

Tháng 4-1975, tôi là Thượng úy, Chính trị viên đơn vị Trinh sát T1, thuộc Ban An ninh T4. Ngày 12-4-1975, đơn vị tôi từ Lộc Ninh nhận lệnh hành quân cấp tốc vào đánh chiếm Sài Gòn. Từ chiều 28 đến sáng 29-4, trời Sài Gòn mưa liên tục, chúng tôi phải hành quân băng qua các cánh đồng và sông rạch để vượt qua xa lộ Đại Hàn, rồi tiếp cận đường Lý Chiêu Hoàng, thuộc phường Bình Phú, quận 6. Là chính trị viên nên tôi có chiếc radio bên mình và luôn mở theo dõi diễn biến chiến sự. Vọng bên tai tôi lúc đó là bài hát “Tiến về Sài Gòn” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và rền vang những âm thanh dồn dập hành quân thần tốc của quân ta. Khi trên đài phát lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh, tôi như không tin vào tai mình và lấy tay chỉnh âm thanh hết cỡ. Trước trận địa, bên kia đường Lý Chiêu Hoàng, trên các nhà cao tầng, những viên đạn của địch bắn rạch lên trời toàn màu khói vàng, trắng báo hiệu đầu hàng. Qua ống nhòm, tôi quan sát thấy bọn lính đồng loạt cởi quân phục, vứt súng ống tháo chạy. Tôi mở ba lô lấy ra lá cờ Giải phóng gắn lên đầu cây sào, giơ lên cao, phất mạnh nhiều vòng. Tiểu đội trưởng Phạm Văn An được lệnh xông lên bắn quả đạn B40 về phía đối phương. Súng giương cao, lê tuốt trần, đơn vị chúng tôi cùng các lực lượng hùng dũng tiến vào tiếp quản Sài Gòn…

Đêm 30-4 rạng sáng 1-5, tôi trở về Tòa nhà hành chính quận 6 của chính quyền Sài Gòn. Sau khi kiểm tra lại lực lượng bố phòng, tôi đi lên lầu, vào phòng của tên quận trưởng. Hắn đã bỏ chạy và khóa cửa ngoài. Tôi dùng khẩu K54 bắn nổ tung ổ khóa, đạp cửa vào trong. Một cảm xúc vui sướng dâng trào, lần đầu tiên, tôi tự thốt lên: Thật rồi đâu phải chiêm bao/ Mỹ kia đã cút, ngụy nhào trưa nay…

QUANG HUY (ghi)

Nhà văn Ngô Thảo:

Ngày đẹp nhất

Buổi trưa ngày 30-4-1975 lịch sử, tôi nghe tin quân ta giải phóng Sài Gòn qua radio tại trụ sở Tạp chí Văn nghệ quân đội (4 Lý Nam Đế, Hà Nội). Bản thân tôi đã có mấy năm cầm súng ở chiến trường Trị-Thiên nên nghe tin mừng đó rất vui sướng. Nhưng trong thâm tâm tôi lại thấy một chút tiếc nuối bởi tôi không có mặt ở Sài Gòn trong giờ phút toàn thắng. Cuối tháng 3-1975 khi quân ta giải phóng Huế và Đà Nẵng, một số văn nghệ sĩ đã được đi trực thăng vào ngay sau ngày giải phóng, hầu hết được theo các cánh quân Nam tiến, riêng tôi theo lệnh cấp trên trở lại Hà Nội gác gôn, bởi tôi làm biên tập viên ở lĩnh vực lý luận phê bình, phải trực cơ quan và cùng các anh, chị em khác trông nom chuyện xuất bản tạp chí, nhường “suất” đi theo các đoàn quân cho những cây bút sáng tác như: Xuân Thiều, Nguyễn Minh Châu, Hữu Mai, Hồ Phương, Thu Bồn... Họ đều đã có mặt ở TP Hồ Chí Minh ngày đầu giải phóng. Sau này, các anh có nói, người đầu tiên họ muốn đi tìm là con gái của nhà văn Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thi, người đã ngã xuống khi tham gia Tổng tiến công Mậu Thân đợt 2 năm 1968. Với tôi, ngày 30-4-1975 vẫn là một trong những ngày đẹp nhất, vui sướng nhất mà tôi từng được trải nghiệm trong cuộc đời mình.

THU Hà (ghi)