(Tiếp theo và hết)
Hy sinh vào ngày 30-4-1975
QĐND Online - Câu chuyện của Thiếu tướng Vũ Thắng nhắc chúng tôi phải tìm hiểu nhiều hơn về những mất mát, hy sinh, cả công khai, cả thầm lặng của biết bao chiến sĩ tình báo trong ngày 30-4-1975. Thiếu tướng Trần Văn Danh, người phụ trách lực lượng tình báo, đặc công, biệt động trong Chiến dịch Hồ Chí Minh khi kể về ngày lịch sử trọng đại ấy đã lưu ý: “Trước thế tấn công dũng mãnh của ta, Mỹ-ngụy biết trước thất bại là không thể tránh, họ tìm mọi cách để trì hoãn hoặc giảm bớt ý nghĩa thắng lợi của ta bằng chiêu bài cuối cùng là đưa Dương Văn Minh lên làm Tổng thống với hy vọng ta sẽ đàm phán. Khi nhận chức Tổng thống, Dương Văn Minh thông qua tổ điệp báo của ta ở Trại Đa-vít Tân Sơn Nhất, đề nghị thành lập chính phủ ba thành phần. Tôi thừa lệnh anh Trần Văn Trà, thảo liên tục mấy công văn trả lời dứt khoát rằng: Chỉ có đầu hàng vô điều kiện mà thôi ! Theo tôi, nếu ông Dương Văn Minh đầu hàng ngay vào tối 28 hoặc ngày 29-4-1975 thì có thể coi là một hành động tránh cho Sài Gòn khỏi bị tàn phá. Nhưng đằng này, ông ta đầu hàng khi đại quân chỉ một giờ sau đã đánh đến Dinh Độc lập rồi”.
 |
Cán bộ Tình báo tham gia tiếp quản Dinh Độc Lập, Hạ viện và Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa (đồng chí Ba Lễ đứng thứ 3 từ phải sang) |
Và trên thực tế, trên đường tiến công vào Sài Gòn, cả năm cánh quân của chúng ta vẫn phải giải quyết không ít những ổ đề kháng “tử thủ” rất điên cuồng của tàn quân ngụy. Nhiều chiến sĩ đã ngã xuống trong ngày 30-4-1975. Đại tá Tư Cang nhớ lại:
- Nhiệm vụ chủ yếu của đặc công, biệt động Miền được giao trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là: Dẫn đường cho các cánh đại quân tiến nhanh đến các mục tiêu được chỉ định; đi tiên phong chiếm giữ và bảo vệ 16 cây cầu, mở đường cho đại quân tiến vào; đồng thời “lót ổ” đánh chiếm các cơ sở kho tàng, như kho xăng, kho gạo, nhà máy điện, nước, Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ngụy, Bộ Tổng tham mưu, căn cứ thiết giáp và pháo binh ở Gò Vấp (căn cứ Cổ Loa, Phù Đổng).… ngăn chặn sự phá hoại của địch trước khi chúng hoàn toàn thất thủ.
Trước đó, tháng 11-1973, Quân ủy Trung ương có kế hoạch rút một số cán bộ các đơn vị đang chiến đấu ở miền Nam ra Bắc học tập nhằm chuẩn bị cho năm 1976 sẽ đánh lớn. J22 có hai cán bộ được cử đi chuyến này là Thượng tá Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí), Trưởng phòng J22 và Trung tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), Phó chính ủy. Đồng chí Sáu Trí vào học ở Học viện Quân sự cấp cao, đồng chí Tư Cang vào Học viện Chính trị. Dự kiến khóa học là hai năm, nhưng mới được một năm thì tháng 3-1975, ta giải phóng Tây Nguyên, địch mắc sai lầm nghiêm trọng khi tháo chạy khỏi địa bàn chiến lược này. Thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam xuất hiện. Số cán bộ B2 được lệnh gấp rút trở về đơn vị chuẩn bị cho trận đánh lớn cuối cùng.
Ô tô theo đường mòn Hồ Chí Minh đưa Tư Cang, Sáu Trí trở về chiến khu Lộc Ninh. Vừa về đến nơi, Sáu Trí được phân công lọt vào trong nội thành Sài Gòn nắm các cơ sở điệp báo cao cấp, còn Tư Cang xuống Củ Chi, nhận nhiệm vụ Chính ủy Lữ đoàn đặc công biệt động 316 mới thành lập. Lữ đoàn 316 mà nòng cốt là cán bộ, chiến sĩ của J22 lúc đó do đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Phó trưởng phòng J22 làm Lữ đoàn trưởng.
Tình hình chiến trường diễn biến rất khẩn trương, Lữ đoàn 316 phải gấp rút xây dựng các đơn vị vũ trang hành động thích ứng với lối đánh đặc công, biệt động trong thành phố, xây dựng lực lượng chính trị bên trong, nhất là dọc hành lang các cửa ngõ tiến vào thành phố, xây dựng các cơ sở mật chôn giấu vũ khí chuẩn bị cho ngày hành động.
 |
Lực lượng biệt động Cụm tình báo H67 tự làm thêm vũ khí chuẩn bị tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. |
Theo lời kể của Đại tá Tư Cang, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tiểu đoàn 81 thuộc Lữ đoàn 316 và hai phân đội Z22, Z23 từ đêm 27-4-1975 đã bất ngờ đánh chiếm cầu Rạch Chiếc và giữ được cầu cho đến sáng 30-4-1975, tạo điều kiện cho Lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đoàn 2 vượt qua để vào đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các của Dương Văn Minh. Vì là trận đánh đầu tiên để chiếm giữ một cây cầu sát Sài Gòn và bám trụ giữ cầu với một lực lượng nhỏ nên đơn vị đã hy sinh 52 đồng chí. Riêng phân đội Z23 đặc công nước do Đại úy Trần Kim Thịnh chỉ huy hy sinh gần hết, sau trận đánh chỉ còn 3 đồng chí.
Một đơn vị khác của Lữ đoàn do đồng chí Tống Viết Dương chỉ huy đã dẫn đường cho những chiếc xe tăng đi đầu của Lữ đoàn 203 sau khi vượt qua cầu Đồng Nai, tiến qua cầu Rạch Chiếc và cầu Sài Gòn. Đến ngã tư xa lộ, đồng chí Tống Viết Dương, người chỉ huy cánh đông của Lữ đoàn 316 đã hướng dẫn đoàn xe quẹo trái theo đường Hùng Vương (nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh) qua cầu Thị Nghè tiến về Dinh Độc Lập. Sau ngày giải phóng, đồng chí Tống Viết Dương được đề bạt cấp hàm Đại tá và tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân.
Cánh Bắc của Lữ đoàn 316 do đồng chí Nguyễn Văn Tăng, Phó Lữ đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Thành Nam, Phó tham mưu trưởng Lữ đoàn chỉ huy Tiểu đoàn 80 cùng hai phân đội Z20 và Z30 đánh vào trại thiết giáp Phù Đổng và trại pháo binh Cổ Loa. Nổ súng chiều 28-4-1975, giằng co đến 8 giờ sáng ngày 30-4-1975, quân ta chiếm lĩnh hai căn cứ này, thương vong 15 đồng chí. Đặc biệt, trận đánh trước làm rối loạn Dinh Tổng tham mưu trưởng ngụy Cao Văn Viên của tiểu đội biệt động do đồng chí Lê Văn Vĩnh chỉ huy. Địch bố trí canh gác dày đặc bên ngoài nhưng tiểu đội đồng chí Bảy Vĩnh đã cải trang thành một tiểu đội lính ngụy, bất ngờ nhảy lên vào xe tăng địch, đánh vào Dinh từ lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4-1975. Sau ngày giải phóng, đồng chí Bảy Vĩnh được đề bạt quân hàm Đại tá và tuyên dương Anh hùng LLVT nhân dân.
Nhớ về những chiến công ngày 30-4-1975, các chiến sĩ tình báo nhớ nhiều hơn đến các đồng đội đã hy sinh trong suốt ngày 29-4 và buổi sáng của ngày lịch sử đó. Đến nay, các cựu chiến binh đặc công, biệt động vẫn lấy ngày 30-4 hằng năm để thắp hương, tưởng nhớ đồng đội.
 |
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Tư Cang (bên trái) với phóng viên báo QĐND Online |
Điệp viên mang tên Nhân dân
Cũng trong ngày 30-4-1975, bên cạnh những lưới điệp báo bắt đầu bước ra hoạt động công khai, vừa dẫn đường cho các cánh quân tiến vào Sài Gòn, vừa làm công tác chính trị, phát động nhân dân nổi dậy làm chủ thành phố, đón chào Quân giải phóng, thì cũng còn nhiều lưới điệp báo âm thầm hoạt động để bảo đảm cho một Sài Gòn nguyên vẹn khi trở về tay nhân dân.
Đồng chí Sáu Trí, nguyên Trưởng phòng J22, từ ngày hành quân gấp từ Hà Nội về chiến khu Lộc Ninh, được phái vào nội thành Sài Gòn thì đến ở nhà đồng chí Ba Lễ, một cán bộ điệp báo thuộc Cụm tình báo A.20. Lúc đó, đồng chí Ba Lễ đang hoạt động trong vỏ bọc một nghị sĩ có uy tín trong Quốc hội Sài Gòn. Ngày 28-4-1975, Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng thống ngụy, trong nội các mới tranh luận nhau về việc tiếp tục “tử thủ hay chủ hòa”. Nắm được tín hiệu đó, Sáu Trí đã cùng Tô Văn Cang, một cơ sở tình báo của ta tiếp cận Dương Văn Minh. Dương Văn Minh ngay lập tức đã cử người đến bắt liên lạc với đồng chí Sáu Trí để gửi thông điệp đến Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về ý định thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần. Sáu Trí đã phân tích rằng, đến nước này thì chỉ có đầu hàng vô điều kiện là sáng suốt nhất. Tất nhiên là Dương Văn Minh không dễ để nghe theo lời khuyên này. Đại tá Tư Cang kể:
- Từ sáng 30-4, anh Sáu Trí, anh Tô Văn Cang và anh Ba Lễ đã cùng nhau đi trên một ô tô vào Dinh Độc Lập với ý định tiếp tục khuyến dụ Dương Văn Minh đầu hàng. Các anh đang ở trong Dinh thì thấy xe tăng Quân giải phóng cán sập cánh cổng Dinh Độc Lập, hùng dũng tiến vào bắt nội các Dương Văn Minh. Sau đó, một cán bộ chỉ huy của Lữ đoàn 203 bước vào, anh ấy đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy trong phòng họp của nội các Dương Văn Minh lại có cả Sáu Trí, người bạn đồng khóa học chỉ huy tham mưu ở ngoài Bắc... Khi Dương Văn Minh được đưa đến Đài Phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng vô điều kiện thì anh Sáu Trí được phân công thảo Quân lệnh số 1 nhằm ổn định tình hình. Sau ngày 30-4, Sáu Trí tiếp tục làm việc trong Ủy ban Quân quản Thành phố Hồ Chí Minh do đồng chí Trần Văn Trà làm Chủ tịch, đồng chí Trần Văn Danh, Phó tham mưu trưởng B2, phụ trách tình báo, đặc công và biệt động làm Phó chủ tịch.
Còn nhiều hành động thầm lặng khác của các chiến sĩ điệp báo trong ngày 30-4-1975. Như đồng chí Nguyễn Văn Minh, điệp viên mang bí số H3 trong Bộ Tổng tham mưu ngụy, buổi sáng 30-4 đã đi vận động các nhân viên còn lại trong Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy gom giữ đồ đạc, giữ nguyên trạng hồ sơ trong Văn phòng để bàn giao cho quân giải phóng. Hay cơ sở tình báo của ta là luật sư Triệu Quốc Mạnh, vốn làm việc trong Quốc hội Việt Nam Cộng hòa. Chiều 28-4-1975, khi Dương Văn Minh lên nắm quyền Tổng thống đã bổ nhiệm luật sư làm Giám đốc Cảnh sát Đô thành. Triệu Quốc Mạnh lập tức ra lệnh giải tán các phòng cảnh sát đặc biệt và thả hết tù chính trị, lấy lý do “Tạo điều kiện thương thuyết”… Nhiều cơ sở của các lưới điệp báo thức trắng cả đêm 29-4 để làm các công tác chuẩn bị, đón chào đoàn quân chiến thắng vào giải phóng Sài Gòn. Với thế áp đảo về lực lượng, được sự nổi dậy hỗ trợ của quần chúng, sự đồng tâm, hiệp lực của các lực lượng nhân dân, quân dân ta đã nhanh chóng làm chủ Sài Gòn, vượt ra ngoài mọi dự liệu của địch. Tin tức tình báo thu được cho thấy, không phải địch không có âm mưu đối phó vào giờ chót, nhưng trước bước tiến thần tốc của quân ta, cùng lòng dân Sài Gòn đã hướng hết về Quân giải phóng, mọi toan tính của địch đều muộn màng. Từ trưa 30-4-1975, Sài Gòn được giải phóng, trong lúc bộ đội, nhân dân tỏa ra khắp các đường phố reo mừng, thì vẫn có không ít chiến sĩ tình báo chỉ có thể hát khúc khải hoàn ca trong thầm lặng…
Thiếu tướng Vũ Thắng nói rằng, có nhiều cách để lý giải về những chiến công như huyền thoại, những “điệp viên hoàn hảo” của tình báo quốc phòng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhưng chỉ có thể giải đáp một cách thấu đáo nhất, khi tìm hiểu về lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngành tình báo: “Tình báo phải luôn dựa vào dân và đi sát địch thì mới có kết quả. Tai mắt của người tình báo có hạn. Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt. Việc gì họ cũng có thể nghe, có thể thấy, có thể biết. Vì vậy, tình báo phải làm cho nhân dân giúp sức, thì sẽ thành công to”.
Thiếu tướng Trần Văn Danh, người “được” các chuyên gia tình báo của CIA đánh giá là “một trong bốn nhà tình báo quan trọng hàng đầu của Việt Cộng” đã viết: Cuộc chiến tranh của chúng ta là chiến tranh nhân dân, mọi thành bại do nhân dân quyết định. Tình báo cũng vậy, nhân dân đã che chở, nuôi nấng, giúp đỡ để tình báo thực hiện nhiệm vụ của mình với nhân dân, với dân tộc.
Tình báo nhân dân – có lẽ đây sẽ là vấn đề mà các nhà nghiên cứu lịch sử, các chuyên gia tình báo của thế giới vẫn còn đang tìm hiểu để tìm câu trả lời cho những kỳ tích của tình báo quốc phòng Việt Nam!
Mời độc giả xem clip:
HỒNG HẢI – THU HÙNG (thực hiện)
Kỳ 1: Vào “biển giáo, rừng gươm” như trẩy hội
Kỳ 2: Giăng lưới “bắt” địch khắp nơi
Kỳ 3: Liên tục “giải mật” tài liệu địch