“Vụ hai con gà” xảy ra hồi cuối năm 1961. Lúc đó Tư Cang được Cục Nghiên cứu (Bộ Tổng tham mưu) điều về căn cứ ở Củ Chi (Sài Gòn), làm Cụm trưởng Cụm Tình báo H63. Mấy anh cán bộ địa phương nghe nói ông có tài bắn súng, bèn khích: “Anh cứ đeo súng bên mình nhưng hổng biết có biết bắn không? Hôm nay, tụi tui mua gà nhà anh Bảy Đế để cải thiện. Gà cả đàn đó, anh thách anh bắn một phát mà hạ được một con”.
Tình huống buộc Tư Cang phải thể hiện, để khẳng định năng lực của những cán bộ vừa được đi đào tạo ở miền Bắc về, vừa xây dựng niềm tin cho cán bộ địa phương. Ông đành rút súng, tiến lại cách đàn gà vài ba chục mét, giơ súng lên… rồi lại hạ xuống. Mọi người “ồ” lên ngơ ngác. Ông lại giơ súng lên lần nữa. Một tiếng “đoàng” vang lên. Không chỉ một, mà là hai con gà lăn ra vườn giãy giụa. Chị vợ anh Bảy Đế thấy vậy thì giãy nảy: “Tui bán có một con, mà anh bắn chết những hai con”. Tư Cang phân trần: “Không nói giấu gì chị, đơn vị tôi cũng hết đồ ăn, tôi cố chờ bắn hạ một lúc hai con, coi như mua thêm để mang về cho anh em”.
 |
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang).
|
Kể câu chuyện “nhất tiễn hạ song… kê”, Tư Cang cười thoải mái. Câu chuyện của chúng tôi với ông lão có duyên này bị “bể kế hoạch” ngay từ đầu. Nhưng ông cũng rất hiểu cánh nhà báo, đang say kể về những mưu mẹo qua mắt địch của Phạm Xuân Ẩn, ông chuyển chủ đề rất nhanh:
- À, còn chuyện chuẩn bị các lực lượng tình báo cho năm 1975, phải hỏi thêm các anh lãnh đạo, lúc đó tôi là Phó chánh (chính) ủy Phòng Tình báo Miền (J22), lúc nổ ra Chiến dịch Hồ Chí Minh thì làm Chánh ủy Lữ đoàn biệt động 316, nên cũng biết chủ yếu ở J22 thôi.
Tuy “chỉ biết về J22” nhưng ông tự hào: Lực lượng tình báo chuẩn bị cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 phải nói rất dồi dào. Tình báo có nhiều bộ phận, như các lưới điệp báo, các đơn vị trinh sát kỹ thuật, các đơn vị đặc công biệt động… Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng tình báo đã sáng tạo ra muôn vàn cách nắm địch, có những cách độc đáo, chưa từng có trong lịch sử tình báo thế giới mà cho đến nay, khi biết chuyện, các chuyên gia nghiên cứu quân sự thế giới cũng ngả mũ khâm phục. Riêng ở J22, với những điệp viên có tài, chui sâu, leo cao vào hàng ngũ địch như: Phạm Xuân Ẩn, phóng viên Tạp chí Time; Đặng Trần Đức nằm trong Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo ngụy; Vũ Ngọc Nhạ, cố vấn tôn giáo Tổng thống; Nguyễn Văn Minh, nhân viên văn thư bảo mật của Tổng tham mưu trưởng ngụy… cùng những quan chức cấp cao của Việt Nam Cộng hòa làm việc cho cách mạng thì các tài liệu, âm mưu, chương trình, kế hoạch hoạt động của địch được thu thập và chuyển “đều đều” ra căn cứ và ra Hà Nội. Lực lượng điệp viên của ta cài cắm trong các cơ quan đầu não của ngụy quân, ngụy quyền rộng khắp… Cho nên mới nói, thời chống Mỹ, tình báo ta đi vào nơi “biển giáo, rừng gươm” đông như trẩy hội…
 |
Đại tá Vũ Đình Hòe.
|
- Bác vốn là chỉ huy một cụm tình báo lừng lẫy như H63, tại sao trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lại đảm nhiệm chức vụ Chính ủy Lữ đoàn biệt động 316? - chúng tôi hỏi, vừa để giải tỏa thắc mắc, cũng vừa “lái” ông trở lại chủ đề chính. Ông Tư Cang à lên một tiếng, rồi nói:
- Thì đó cũng là bước phát triển mạnh của tình báo Miền. Đầu năm 1975, tôi đang ra Bắc học Học viện Chính trị thì cục diện chiến trường thay đổi quá nhanh, cấp trên lệnh chúng tôi dừng việc học, cấp tốc trở lại chiến trường. Lúc này, Phòng tình báo Miền thành lập Lữ đoàn 316, sử dụng lối đánh đặc công, biệt động, đánh chiếm một số mục tiêu quan trọng để “lót ổ” cho quân chủ lực tiến vào giải phóng Sài Gòn; đánh chiếm các cây cầu quan trọng quanh Sài Gòn và một số nhiệm vụ khác. Chuyện này cũng hay lắm, tôi sẽ nói sau. Các bạn nếu có thời gian, nên tìm hiểu thêm công tác phát triển lực lượng tình báo biệt động và lối đánh đặc công. Lực lượng này cũng có những đóng góp không nhỏ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Vừa nắm địch, vừa đánh “nở hoa trong lòng địch”
Tạm chia tay với Đại tá Tư Cang, chúng tôi trở ra Hà Nội, tìm đến nhà riêng Đại tá Vũ Đình Hòe, nguyên Cục phó Cục Nghiên cứu (Bộ Tổng tham mưu), người cán bộ tình báo gần như cả cuộc đời gắn bó với việc huấn luyện cách đánh đặc công và phát triển lực lượng quân báo cho quân đội.
Nhà ông nằm trong một ngách nhỏ trên “phố nhà binh” Lý Nam Đế (Hà Nội). Tuổi 90 hình như chưa tác động gì đến độ mẫn tiệp của ông. Nghe chúng tôi trình bày sơ qua ý định cuộc nói chuyện, ông nháy mắt vui vẻ:
- Nói qua qua thì thấy các anh đã tìm hiểu sâu về tình báo quân sự rồi đấy. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, lực lượng tình báo đã phát triển rất nhanh, với các lực lượng chủ yếu là điệp báo, trinh sát kỹ thuật và trinh sát bộ đội. Còn đặc công và biệt động, trước cũng từ tình báo mà phát triển nên. Khi cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra thần tốc, với khí thế “một ngày bằng 20 năm”, công tác nắm địch từ chiến lược đến chiến dịch, chiến thuật cũng khẩn trương, thần tốc như thế. Sở dĩ có được lực lượng nắm địch mạnh như thế, trước hết là nhờ chủ trương, đường lối đúng đắn của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương trong đào tạo cán bộ tình báo. Chúng ta đã có sự chuẩn bị hàng chục năm trời, nên khi thời cơ đến thì quân đội nói chung, ngành tình báo nói riêng, vươn mình lớn dậy như Phù Đổng, nắm lấy thời cơ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Con đường đến với nghề tình báo của Đại tá Vũ Đình Hòe rất tình cờ. Số là giữa năm 1956, khi mới 28 tuổi và đang là quyền Trung đoàn trưởng Trung đoàn 176 (Đại đoàn 316), Vũ Đình Hòe được cử sang Liên Xô học ở Học viện Quân sự Phrun-de, trường đào tạo cán bộ quân đội trung, cao cấp của quân đội Xô-viết. Năm 1960 về nước, anh rất ngạc nhiên khi thấy mình được phân công về Cục Nghiên cứu làm công tác tình báo. Sau này mới biết, khi làm luận án tốt nghiệp ở Học viện Phrun-de, Vũ Đình Hòe bắt thăm phải đề tài trinh sát và hoàn thành khá xuất sắc. Cấp trên đọc hồ sơ thấy vậy điều ngay ông về Cục Nghiên cứu. Đến năm 1966, ông được bổ nhiệm Trưởng phòng Trinh sát bộ đội (nay là Quân báo trinh sát) của cục này.
Đại tá Vũ Đình Hòe tâm đắc với cách đánh đặc công mà ông là một trong những người đã tham gia nghiên cứu phát triển và huấn luyện bộ đội. Đây là cách đánh bộ đội ta thực hiện từ thời chống Pháp, nhưng đến khi chống Mỹ, việc thực hiện nó có nhiều khó khăn. Vì các cứ điểm quân Mỹ đã kiên cố hơn nhiều, địch lại bố trí dày đặc hàng rào thép gai, hàng rào điện tử bảo vệ, kết hợp có chó béc-giê phát hiện người tiềm nhập. Ông Hòe cùng các đồng đội bỏ ra rất nhiều khả năng nghiên cứu khả năng chịu đựng của người chiến sĩ, rồi từ đó xây dựng giáo án huấn luyện chiến sĩ đặc nhiệm theo hướng nâng cao toàn diện các phẩm chất kỹ thuật. Cơ quan ông còn nghiên cứu, đề xuất hàng loạt nội dung huấn luyện chiến sĩ trinh sát trong toàn quân các kỹ thuật, chiến thuật chuyên ngành như: Võ thuật, binh yếu địa chí, tiềm nhập, tổ chức mạng quân báo nhân dân… Ngoài ra, phòng có đơn vị trinh sát để cử đi các chiến dịch lớn để nắm tình hình, hệ thống bố trí của địch trên toàn mặt trận, phục vụ cho công tác tham mưu.
- Ngay trong quá trình huấn luyện, chính anh em bộ đội cũng đề xuất ra thêm nhiều phương pháp đặc công rất hay. Tôi lấy ví dụ như thêm chút hóa chất bên mình là lừa được chó béc-giê; mang thêm cây kìm cộng lực là tháo gỡ hàng rào thép gai nhanh hơn. Trước đây, trinh sát của mình bò vào tận tung thâm trận địa địch rồi về vẽ lại cho chỉ huy lập kế hoạch tác chiến. Sau táo bạo hơn, nghĩ bò tận đó, sao không đánh luôn nó, thêm một mũi “từ trong đánh ra, đánh nở hoa trong lòng địch” là vì thế. Cách đánh đặc công ra đời từ đó, tất nhiên là phải trải qua quá trình nghiên cứu, phát triển, huấn luyện công phu. Nhưng nhờ thế mà trong Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968 rồi năm 1975, cách đánh đặc công-biệt động đã đóng góp không nhỏ vào thắng lợi chung. Giai đoạn 1964-1967, rồi 1972-1975, mỗi năm chúng tôi huấn luyện hàng nghìn bộ đội, các đồng chí này vào chiến trường cũng huấn luyện thêm anh em. Lực lượng quân báo-trinh sát đủ sức theo kịp sự phát triển thần tốc của các chiến dịch năm 1975 là nhờ có sự chuẩn bị kỹ càng đó.
Lực lượng trinh sát, đặc công đã có sự phát triển nở rộ nhờ tầm nhìn xa, trông rộng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh. Ngày 13-4-1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn 426 Trinh sát Đặc công chi viện cho chiến trường miền Nam. Năm 1967, Binh chủng Đặc công được thành lập, với nòng cốt ban đầu chính là Trung đoàn 426 tách khỏi Cục Nghiên cứu. Trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đơn vị thuộc Binh chủng Đặc công và lực lượng đặc công-biệt động-trinh sát-quân báo của ngành tình báo đã có những đóng góp to lớn trong chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Hồi tưởng lại những ngày thần tốc cách đây 40 năm, Đại tá Vũ Đình Hòe hồ hởi:
- Công tác nắm địch theo đà tiến thần tốc của 5 cánh quân cũng rất thần kỳ. Tác chiến cấp quân đoàn, công tác nắm địch có khi phải triển khai trước cả tháng. Nhưng quân ta lúc đó tiến thần tốc, vừa đi, vừa đánh, vừa nắm địch. Lúc đó tôi là phái viên của Cục Nghiên cứu, đang đi theo cánh quân phía Đông của Quân đoàn 2. Anh Nguyễn Hữu An, Tư lệnh Quân đoàn 2 hỏi tôi: Làm thế nào để nắm địch khi tiến nhanh thế này? Giải bài toán này không dễ, mình đang tiến thần tốc như thế, nếu không nắm được địch, gặp các ổ đề kháng lớn một cách bất ngờ thì sao? Nhưng rồi lực lượng quân báo và trinh sát kỹ thuật của ngành tình báo, cả lực lượng điệp báo nữa, đã tham gia và có lời giải hợp lý.
(Còn nữa)
HỒNG HẢI – THU HÙNG (thực hiện)
Kỳ 2: Giăng lưới “bắt địch” khắp nơi