QĐND - Đồng bằng châu thổ sông Hồng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thuộc địa bàn Quân khu Tả Ngạn và Quân khu Hữu Ngạn (nay là Quân khu 3), có vị trí chiến lược quan trọng, vừa là chiến trường trọng điểm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, vừa là hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho quân và dân miền Nam đánh Mỹ. Mùa xuân năm 1975, quân và dân Đồng bằng sông Hồng đã phát huy sức mạnh tổng lực chi viện miền Nam mở cuộc Tổng tiến công chiến lược giành thắng lợi cuối cùng.

 

Quán triệt đường lối, chủ trương cách mạng của Đảng, sự chỉ đạo của Hội đồng Chính phủ, quân và dân Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn nhận thức sâu sắc: Nhiệm vụ tổ chức, huy động lực lượng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến là một công tác chủ yếu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng bộ, quân và dân hai quân khu, đồng thời là trách nhiệm, tình cảm của các cấp, các ngành, các đoàn thể và nhân dân. Đầu năm 1975, quán triệt quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam, Quân khu ủy hai quân khu tiếp tục xác định: “Nhiệm vụ chi viện chiến trường là nhiệm vụ hàng đầu” và phát động mạnh mẽ phong trào: “Toàn quân khu hướng ra tiền tuyến”, “Toàn quân khu ra trận”, đẩy mạnh phong trào “Ra quân, ra của, ra chiến thắng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả cho chiến thắng”...

Thanh niên miền Bắc hăng hái lên đường vào miền Nam chiến đấu. Ảnh tư liệu/Cổng thông tin điện tử Bộ Quốc phòng.

 

 

Về thực hiện nhiệm vụ tuyển quân, bổ sung lực lượng chủ lực chi viện chiến trường: Vận dụng kinh nghiệm và cách làm hay từ cơ sở, đáp ứng yêu cầu chi viện cho chiến trường miền Nam ngày càng khẩn trương, cấp bách, Quân khu Tả Ngạn, Hữu Ngạn gấp rút tổ chức tuyển quân với số lượng lớn. Chỉ trong thời gian rất ngắn, hai quân khu vừa hoàn thành việc tuyển quân theo chỉ tiêu trên giao, vừa tổ chức huấn luyện, kịp thời bổ sung cho các đơn vị bộ đội chủ lực chi viện miền Nam.

 

Ở Quảng Ninh, Quân khu Tả Ngạn phối hợp với Tỉnh ủy chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp tiến hành điều tra cơ bản, nắm chắc từng địa bàn, chủ động lập kế hoạch tuyển quân, đẩy mạnh xây dựng các phân đội dự bị thành “Đơn vị chủ lực tại xã”. Nhiệm vụ tuyển quân chi viện chiến trường được đặt trực tiếp dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của các chi bộ, Đảng bộ, có sự tham gia tích cực của các ngành, đoàn thể. Vào giữa tháng 2-1975, Tỉnh ủy triệu tập hội nghị cán bộ quán triệt chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương về công tác quân sự địa phương trong tình hình mới, đồng thời phát động phong trào ra quân mùa xuân, tập trung đẩy mạnh sản xuất và động viên tuyển quân, thực hiện kế hoạch giao quân cả năm 1975 trong một đợt, một ngày.

 

Với tinh thần “Vì đồng bào miền Nam ruột thịt, vì Đà Nẵng - Gò Công kết nghĩa”, Thành ủy, HĐND, UBND TP Hải Phòng chọn huyện An Thụy (nay thuộc địa bàn huyện An Lão, Kiến Thụy và quận Kiến An) làm điểm chỉ đạo công tác tuyển quân đầu năm 1975. Trong ngày 18-3, huyện đã bàn giao vượt chỉ tiêu 10,4%. Thành phố còn xây dựng và tăng cường cho Quảng Nam - Đà Nẵng (thành phố kết nghĩa với Hải Phòng) một tiểu đoàn mang tên “Hải Đà” gồm 672 cán bộ, chiến sĩ là công nhân tự vệ các cơ quan, xí nghiệp của thành phố tình nguyện gia nhập quân đội. Từ cuối tháng 1 đến hết tháng 4-1975, Hải Phòng có 33 tiểu đoàn hành quân vào chiến trường.

 

Đến ngày 15-4-1975, các tỉnh còn lại trên địa bàn châu thổ sông Hồng đều hoàn thành chỉ tiêu giao quân cả năm trong một đợt; riêng tỉnh Quảng Ninh và TP Hải Phòng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Chính phủ biểu dương. Quân khu Tả Ngạn, Hữu Ngạn còn nhanh chóng bổ sung các đơn vị chủ lực của quân khu chi viện kịp thời cho các chiến trường theo sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng.

 

Về huy động vật chất, phương tiện chi viện miền Nam: Thực hiện chỉ thị của Hội đồng Chính phủ và Bộ Quốc phòng, Quân khu ủy, Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn thành lập Hội đồng chi viện miền Nam, tập trung chỉ đạo LLVT, cấp ủy, chính quyền và nhân dân các địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ lao động sản xuất và huy động tối đa của cải chi viện cho chiến trường. Các địa phương đều dấy lên phong trào “Mỗi người làm việc bằng hai, hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1975, mừng miền Nam giải phóng”, “Giờ làm việc giải phóng miền Nam”, “Thanh niên tình nguyện vượt mức kế hoạch”... Tiêu biểu là tỉnh Ninh Bình đóng góp cho Nhà nước 135.000 tấn thóc, tích lũy cho hợp tác xã so với năm 1973 tăng thêm 5.500 tấn; tỉnh Nam Hà đóng góp cho Nhà nước 110.000 tấn thóc, 9000 tấn thịt lợn, cung cấp riêng cho chiến trường 8.600 tấn lương thực và 4000 tấn thực phẩm trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975... 

 

Những ngày cuối tháng 3 và đầu tháng 4-1975, Hải Phòng giữ vị trí là đầu mối giao thông quan trọng chi viện cho chiến trường. Từ Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái ở phía Bắc; Thanh Hóa, Nghệ An ở phía Nam, các đoàn tàu hỏa, xe vận tải, ca nô, sà lan dồn dập chở các loại đạn pháo lớn... về cảng Hải Phòng. Thành phố huy động những đội bốc xếp giỏi nhất cùng hàng trăm xe vận tải, xe chở khách, hàng chục tàu, thuyền, sà lan biển tham gia giải tỏa hàng hóa. Những tàu có trọng tải lớn, những đoàn tàu kéo theo sà lan mang tên “Hải đoàn Quyết thắng” xuất phát từ cảng Hải Phòng và cảng Chùa Vẽ kịp thời vận chuyển vũ khí phục vụ cuộc tiến công thần tốc trên chiến trường.

 

Để kịp thời cơ động Sư đoàn 338C của Bộ Quốc phòng đang đóng quân trên địa bàn Quân khu Hữu Ngạn vào vị trí dự bị chiến lược tại Thác Cóc (Quảng Trị), từ ngày 10 đến 28-4-1975, Quân khu Hữu Ngạn tổ chức lực lượng vận tải để cơ động sư đoàn vào chiến trường. Kết hợp với sự chi viện của trên, chỉ trong 13 ngày cuối tháng 4-1975, lực lượng vận tải của quân khu đã thực hiện vận chuyển 215 chuyến xe kịp thời cơ động Sư đoàn 338C đến vị trí đóng quân theo quy định.

 

Cùng với chi viện sức người, sức của cho chiến trường, hai Quân khu Tả Ngạn và Hữu Ngạn còn lựa chọn, cử hàng nghìn cán bộ tiếp quản vùng mới giải phóng và tổ chức tiếp nhận an dưỡng, thực hiện chính sách cho thương binh, bệnh binh. Bộ tư lệnh Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Hữu Ngạn đã thống nhất với các tỉnh, thành phố thành lập các đoàn an điều dưỡng thương binh, bệnh binh. Quân khu có các Đoàn 215, 253, 581, 582, 583; các tỉnh, thành phố có các Đoàn 151 (Hải Phòng), 153 (Thái Bình), 155 (Hải Hưng), 587 (Hòa Bình)...

 

Với những thành tích to lớn chi viện sức người, sức của trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và trong cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 nói riêng, quân và dân Đồng bằng sông Hồng được Đảng, Nhà nước tặng thưởng 1 Huân chương Sao vàng, 2 Huân chương Hồ Chí Minh, 1 Huân chương Độc lập hạng nhất, 42 đơn vị và 283 cán bộ, chiến sĩ được phong tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVT nhân dân cùng hàng vạn huân, huy chương các loại. Quân ủy Trung ương biểu dương quân và dân quân khu “Đoàn kết, nghiêm chỉnh, sáng tạo, chi viện tiền tuyến hết lòng, chiến đấu dũng cảm, xây dựng lực lượng tốt, xây dựng hậu phương vững mạnh”. Chiến công và thành tích đó góp phần đắc lực cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

 

Từ việc phát huy sức mạnh tổng lực của quân và dân Đồng bằng sông Hồng trong chi viện miền Nam mở cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

 

Thứ nhất, nhận thức rõ tính chất của Quân khu 3 - Quân khu Đồng bằng sông Hồng vừa là hậu phương, vừa là tiền tuyến, đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố quốc phòng-an ninh, sẵn sàng cho tác chiến phòng thủ, đồng thời đủ khả năng chi viện cho chiến trường khác.

 

Thứ hai, nhận thức sâu sắc về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng trận địa lòng dân vững chắc để tận dụng tối đa nhân lực, vật lực cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

 

Thứ ba, chăm lo xây dựng LLVT nhân dân ngày càng vững mạnh làm lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

 

Thứ tư, phát huy hiệu quả phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương trong giai đoạn mới.

 

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân khu phối hợp cùng với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể phát động nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động yêu nước gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương.

 

Huy động sức mạnh tổng lực của quân và dân Đồng bằng sông Hồng chi viện miền Nam có ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để động viên được sức người, sức của to lớn góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang này là kết quả của cả một quá trình vun đắp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần yêu chủ nghĩa xã hội, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc của Đảng bộ, nhân dân và LLVT Quân khu. Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, xây dựng hậu phương vững mạnh chi viện đắc lực, tổng lực cho tiền tuyến vẫn còn nguyên giá trị.

Thiếu tướng ĐỖ CĂN - Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 3