Kỳ 2: Ông Hêng Xom-rin và chiếc đồng hồ Omega

QĐND - Việc đầu tiên chúng tôi kiểm tra quân tư trang của họ. Ông trán cao, da nâu, trong ba lô có một khẩu súng ngắn K59 để dưới đáy ba lô, một khẩu K54 giắt cạp quần chưa lên đạn, 3 lọ thuốc con nhộng nhãn Mai Tông (có cả chữ Trung Quốc), hộp đường glu-cô, con dao găm, một bật lửa và vài bộ quần áo. Một người đứng tuổi da trắng hơn, tóc điểm bạc có một khẩu súng K54 giắt cạp quần chưa lên đạn và 5 người lính chân trần. Tôi nói:

- Các anh có ai nói được tiếng Việt Nam không?

Thấy mọi người ngơ ngác, tôi hỏi người phiên dịch:

- Anh hỏi họ, không ai nói được tiếng Việt sao?

Người phiên dịch nói lại. Họ đều lắc đầu. Thế là người phiên dịch phải giúp tôi.

Tôi nói:

- Tất cả vũ khí, dao găm, bật lửa chúng tôi thu, còn lại các anh giữ lấy.

Họ cho các thứ quân trang đồ dùng vào ba lô. Để họ ổn định, tôi đưa tấm bản đồ ra và bảo ông trán cao, da nâu:

- Bây giờ tôi hỏi, ông thuộc đơn vị nào?

Qua phiên dịch, ông ta nói:

- Chúng tôi thuộc Sư đoàn 4, Quân khu 203.

- Ông tên gì?

-  Hêng Xom-rin (Heng Samrin).

-  Ông chức gì?

- Tôi là Tư lệnh Sư đoàn.

Nghe đến đây tôi hơi ngạc nhiên, sợ mình nghe nhầm. Tôi bảo người phiên dịch hỏi lại và ông ta khẳng định làm Tư lệnh Sư đoàn từ năm 1976. Tôi hỏi:

- Lực lượng bao nhiêu? Đi từ đâu đến?

Tôi mở tấm bản đồ đưa cho ông ta. Rất thành thạo, ông xoay bản đồ cho đúng hướng. Tôi nghĩ ông này đúng là chỉ huy sư đoàn thật. Ông ta trả lời qua người phiên dịch, đại ý: "Lực lượng của Sư đoàn 4, vì không chịu được cảnh hà khắc đã ly khai khỏi Pôn Pốt. Lúc đầu, có hơn 200 người, đi từ phía Tây Đầm Be, trên đường gặp lính Pôn Pốt phải nổ súng, rồi giẫm phải mìn, tan tác mỗi người một hướng, tốp của ông còn lại 7 người".

Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng cách mạng Cam-pu-chia phối hợp chiến đấu. Ảnh tư liệu.

Tôi bảo ông ta đánh dấu những đoạn suối mùa khô xe tăng có thể qua được, những chỗ địch gài mìn, những nơi gặp địch nổ súng... Ông ta thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tôi. Quay sang người có nước da trắng, tóc điểm bạc, tôi hỏi:

- Ông tên gì, chức vụ?

Qua phiên dịch, ông ta cho biết tên là Rô Bi, làm Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 203.

Tôi điện về trung đoàn báo cáo vắn tắt tình hình và nhấn mạnh, đây là những cán bộ cao cấp trong quân đội Pôn Pốt. Lúc sau, đích thân Chính ủy Sư đoàn Lưu Qúi Ngữ điện cho tôi: "Triều này, cậu tổ chức đưa những người K về ngay Sư đoàn, nhớ phải bảo đảm an toàn cho họ".

Nhận được lệnh, lúc này đã hơn 17 giờ, tôi nói công vụ sắp cơm. Trong lúc chờ cơm, tôi hỏi ông Hêng Xom-rin:

- Quê ông ở đâu? Gia đình vợ con ông thế nào?

Tôi nhìn thấy ông có vẻ xúc động, một lát sau ông nói: "Quê ở Prey Veng, vợ con đến nay tôi cũng không biết ở đâu, họ còn sống hay đã chết. Dưới chế độ Pôn Pốt không có khái niệm gia đình, vợ con. Chúng tàn sát người dân rất dã man, chúng dùng búa đập vào đầu cho đến chết, rồi chôn tập thể...”.

Tôi hỏi:

- Ông bao nhiêu tuổi?

- Tôi sinh năm 1934, năm nay 44 tuổi rồi.

Hai mâm cơm đã sắp ra gần nhau. Ban Chỉ huy chúng tôi một mâm, những người Cam-pu-chia một mâm. Tôi nói công vụ mở mấy hộp thịt xay chia đều hai mâm và bảo họ ăn cơm. Tôi quan sát người lính trẻ rất lễ phép xới cơm, đưa hai tay cho hai ông ăn trước rồi họ mới ăn. Ông ta ăn hai lưng cơm rồi bỏ bát. Tôi nói cậu Đoàn công vụ hái mấy quả quít ngoài vườn pha hai cốc nước đưa cho ông ta một cốc, một cốc đưa cho ông Rô Bi.

Tôi giao cho Bình, Trợ lý tác chiến phụ trách một trung đội bộ binh trang bị mạnh, đưa họ về phía sau. Lúc chuẩn bị lên đường, ông Hêng Xom-rin chỉ vào cổ tay trái, nói:

- Omega! Omega!

Bằng linh cảm của người nhiều năm làm chính sách, tôi biết rằng, anh em chắc đã giữ chiếc đồng hồ của ông ta. Tôi nói qua người phiên dịch: "Bảo với ông ta yên tâm, chúng tôi sẽ gửi về sau".

Lực lượng đưa những người Cam-pu-chia đi khuất, tôi hội ý chỉ huy tiểu đoàn và có kế hoạch tìm kiếm chiếc đồng hồ Omega.

Tối 24-10, Chính ủy Lưu Quí Ngữ điện cho tôi, ông nhẹ nhàng:

- Triều à, cậu trực tiếp gặp những anh em bắt toán người K, động viên trả lại chiếc đồng hồ thì mọi việc sẽ nhẹ nhàng. Quân đội ta, Nhà nước ta sẵn sàng bỏ 1 triệu đô-la đền cho họ, nhưng đây là danh dự một đội quân cách mạng, không thể tính thành tiền được.

- Báo cáo thủ trưởng, em hiểu. Em cũng đang tìm mọi cách tìm chiếc đồng hồ này, thủ trưởng cho em thời gian.

- Thời gian của cậu là trong ngày mai thôi đấy.

Buổi trưa ngày 25-10, tôi thấy Vũ Hùng, Trợ lý bảo vệ, Chu Đình Út, Trưởng tiểu ban Chính sách Trung đoàn 66 đến tiểu đoàn. Anh Vũ Hùng và Chu Đình Út là người quen nên không rào đón. Út nói:

- Cái đồng hồ Omega hiện nay là điểm nóng của trung đoàn và cả sư đoàn. Ông ta là cấp to của quân đội Pôn Pốt đã ly khai. Một người mà ta đang rất cần. Nếu hôm nay anh không tìm được thì trên sẽ "treo giò", cách chức anh đấy.

Sự việc rồi cũng được giải quyết nhẹ nhàng. Chiếc đồng hồ Omega cuối cùng cũng tìm ra. Đó là cậu Minh, Đại đội phó Đại đội 5 cất giữ.

Tôi điện cho Chính ủy Sư đoàn là đã tìm thấy chiếc đồng hồ Omega. Chính ủy Ngữ còn hỏi lại: "Có đúng chiếc đồng hồ của ông ấy không?". Tôi quả quyết: "Thưa đúng ạ!".

Giao chiếc đồng hồ cho Chu Đình Út, tôi điều một tổ trinh sát, một tiểu đội bộ binh bảo vệ đưa chiếc đồng hồ về Sở chỉ huy Sư đoàn ngay trong chiều ngày 25-10-1978 an toàn.

Đầu tháng 12-1978, Báo Quân đội nhân dân đăng tin Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia ra đời và đăng ảnh ông Hêng Xom-rin, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành đảng bộ khu Đông, Tư lệnh Sư đoàn 4 - làm Chủ tịch. Anh em Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 66, Sư đoàn 10, Quân đoàn 3 chúng tôi nhận ra ông đều gọi vui là "ông Omega".

---------

Kỳ 1: Hành quân về phum Săng Kê

Đại tá LÊ HẢI TRIỀU