Từ năm 2000 chúng tôi bắt đầu biên soạn giáo trình kỹ thuật truyền dẫn số, cáp quang, thông tin di động, thay cho giáo trình analog, máy tải ba dây trần, đã rất cũ của Hungary từ những năm 1960. Bên cạnh đó, tôi có 5 năm (1998-2003) làm cộng tác viên với Viện Khoa học Kỹ thuật, Tổng cục Bưu điện với mong muốn tiếp thu kiến thức thực tế về mạng viễn thông quốc gia, bổ sung cho bài giảng. Đầu 2004, với tình cảm “thầy trò”, “đồng đội” cũ ở Học viện KTQS, tôi về làm cộng tác viên với Công ty Viễn thông Quân đội (nay là Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội), cố vấn cho Thiếu tá Nguyễn Đình Chiến, Trưởng phòng Kỹ thuật (nay là Thiếu tướng, Phó tổng giám đốc), với hy vọng đóng góp chút hiểu biết cho sự phát triển của Viettel và làm phong phú thêm cho lý luận ở trường.
“Cái nôi” của Trung tâm đào tạo Viettel (Học viện Viettel)
Đầu năm 2004, khi đó Công ty Viettel, đã có hơn 3 năm kinh doanh dịch vụ VoIP 178, kết nối qua đường trục của VNPT, có chút “bát ăn bát để”. Các dịch vụ internet và cố định đã được triển khai, nhưng tốc độ phát triển còn chậm. Để tăng tốc bứt phá chỉ có dịch vụ viễn thông di động. Nhưng Viettel phải “tự làm”, mà không thể liên doanh, liên kết với nước ngoài, vì thiếu vốn, công nghệ, nhân lực. Trong giai đoạn nghiên cứu, thử nghiệm, Viettel mới lắp đặt những trạm BTS đầu tiên. Đến giữa năm 2004 mà mới chỉ “cắm” được khoảng 150 trạm BTS tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng, thì “cạn tiền”. Rồi trong một lần đi học hỏi ở Thái Lan, Ban lãnh đạo Viettel đã “chớp” được cơ hội, giải pháp mua trạm BTS 2G trả chậm, “Mua hàng trả góp”. Những năm đó, các nhà mạng toàn cầu cơ bản tiến lên triển khai 3G, nên nhiều hãng sản xuất 2G gặp “khủng hoảng thừa”, không có người mua.
 |
Trung tâm Đào tạo Viettel - Những năm đầu thành lập. |
Tháng 10-2004 Công ty khai trương mạng Viettel Mobile trên toàn quốc, khi đó đã lắp được trên 500 trạm BTS, đủ điều kiện hạ tầng của một nhà mạng ở Việt Nam. Tôi cũng được cấp 1 số điện thoại, gọi miễn phí để tác nghiệp, có số cuối là…00.091, là một trong 100 số VIP đầu tiên của Viettel. Khi đó lực lượng kỹ thuật của Công ty vẫn còn mỏng yếu. Cuối năm 2004, đầu năm 2005, theo yêu cầu nhiệm vụ, tôi và anh Hoàng Mạnh Hòa, Trưởng ban Ban Đào tạo, Phòng Kỹ thuật thực hiện một “tua” đi từ miền Nam ra ngoài Bắc, kiểm tra thực lực của đội ngũ kỹ thuật. Báo cáo kết quả khảo sát hơn 100 kỹ sư với Phó giám đốc Công ty Nguyễn Mạnh Hùng (sau là Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn, nay là Bộ trưởng Bộ KH&CN) và Trưởng phòng Nguyễn Đình Chiến có thể nói là khá “ảm đạm”.
Thực tế trình độ của đội ngũ của ta chỉ có vậy. Có kỹ sư truyền dẫn phía Nam còn khẳng định rằng: “Nước thấm được qua thủy tinh, thấm từ ngoài vào tận lõi sợi quang làm tăng suy hao!”. Họ biện minh rằng: “Không tin, các thầy cho đá vào cái cốc này mà xem, nước sẽ bám đầy phía bên ngoài đấy ạ”. Chúng tôi báo cáo và nhận định đó là một mối lo lớn mà Công ty sẽ phải tìm cách cải thiện. Sau đó Ban Đào tạo đã tăng cường tổ chức đào tạo, tập huấn lại cho một số kỹ sư trên tuyến và các kỹ sư mới tuyển dụng, từ đó đưa về đơn vị, chi nhánh tỉnh, thành phố. Thời gian tập huấn không dài, chỉ 1-2 tuần, những kiến thức cơ bản của mạng lõi, ngoại vi, lắp đặt, vận hành trạm, hàn đấu cáp quang, nguồn điện, ứng cứu thông tin. Địa điểm huấn luyện tại trụ sở M48 Nguyên Hồng và khu nhà mượn của Văn phòng Bộ tư lệnh Thông tin ở Giang Văn Minh. Đây là những “hạt nhân” tiếp tục về đào tạo, tập huấn cho đội ngũ trên tuyến đầu.
Đến tháng 6-2005 Viettel phát triển lên Tổng Công ty Viễn thông Quân đội. Một ngày gần cuối năm 2005, Trưởng phòng Kỹ thuật đặt cho tôi một “bài toán” mới: “Đầu năm 2006 có hội nghị quân chính của Tổng Công ty, Phòng Kỹ thuật mình cần có ý kiến phát biểu, anh tìm xem có giải pháp gì mới, đề xuất giúp em nhé!”. Với kinh nghiệm của một giảng viên, chuyên gia công nghệ, nhất là kết quả đợt đi khảo sát trên tuyến, sau vài đêm trăn trở, tôi gạch ra 2 đề xuất với những luận giải:
Thứ nhất: Cần thành lập Trung tâm Đào tạo Viettel: Vì không một trường đại học nào có khả năng đào tạo ra kỹ sư, cử nhân mà làm được tốt ngay công việc của các công ty cả. Vì vậy, cần có đào tạo sau tuyển dụng, đào tạo nội bộ, đào tạo thường xuyên về những vấn đề mang tính đặc thù của công ty. Để khắc phục câu chuyện trình độ của kỹ sư Viettel còn khá yếu (như kết quả khảo sát năm qua), Tổng Công ty nên thành lập “Trung tâm Đào tạo”. Trước mắt, Trung tâm làm nhiệm vụ đào tạo sau tuyển dụng và đào tạo nội bộ; sau này phát triển hơn thì có thể nâng cấp thành trường đại học, “lấy mỡ nó rán nó”. Lấy học phí thu được để trang trải hoạt động, số người giỏi, xuất sắc, phù hợp thì giữ lại cho Viettel; còn lại thì ra trường theo thị trường lao động.
Thứ hai: Cần thành lập Trung tâm Nghiên cứu phát triển (R&D): Các nhà khai thác viễn thông của Việt Nam hiện đang kinh doanh “rất nông”, tất cả đều mới chỉ đua nhau mua trang thiết bị về “cắm trạm” và bán dịch vụ, cạnh tranh khách hàng, thuê bao để thu lợi nhuận. Như thế sẽ không thể phát triển bền vững được, bởi sớm hay muộn thị trường cũng sẽ bão hòa. Viettel muốn phát triển bền vững, lâu dài thì phải có sản phẩm dịch vụ và công nghệ của riêng mình. Viettel sau hơn 1 năm kinh doanh di động, đã có vốn liếng kha khá. Vì vậy nên tính đến chuyện thành lập “Trung tâm R&D” để thiết kế, sản xuất ra các sản phẩm công nghệ, dịch vụ của riêng mình.
Bước sang năm mới 2006, tại hội nghị quân chính, Trưởng phòng bổ sung và thuyết trình, báo cáo như thế nào thì không rõ, vì mấy hôm tôi bận một số chuyên đề ở Học viện KTQS. Sau hội nghị quân chính, anh Chiến vui mừng thông báo: “Ban lãnh đạo Tổng Công ty đã nhất trí hoàn toàn với các ý kiến đề xuất của anh đấy. Các anh đồng ý cho thành lập Trung tâm Đào tạo và Trung tâm R&D rồi”. Trưởng phòng còn nhấn mạnh: “Anh Bình và anh Hòa (Hoàng Mạnh Hòa, Trưởng ban Đào tạo) vui lòng giúp em chuẩn bị dẫn quân ra lập Trung tâm Đào tạo Viettel đấy nhé”. Tôi nghe vậy thì rất mừng, không phải “phổng mũi” vì ý kiến của mình được đánh giá tốt; mà là biết rằng Ban lãnh đạo Viettel cũng đang có những mối lo giống như mình và quyết tâm thực hiện những giải pháp cần thiết cho chiến lược dài hạn mà thôi.
 |
Lễ kỷ niệm 10 năm ngày truyền thống Học viện Viettel tại An Khánh năm 2016. |
Và chiến lược, thực thi
Anh chị em Phòng Kỹ thuật lại hội thảo, bàn bạc, với những ý tưởng rất va nhau; như văn hóa Viettel đúc kết là: “Dò đá qua sông”. Việc thành lập Trung tâm R&D không phải suôn sẻ gì, nhân sự từ Phòng Kỹ thuật tách ra có hơn 30 kỹ sư, kể cả trưởng phòng, tất cả hầu như chưa từng làm thiết kế, nghiên cứu phát triển. Những cái khó phải vượt qua đó là: Cách làm thế nào?; Ta sẽ làm sản phẩm kiểu gì?; Định hướng sản phẩm ra sao?; Vốn và nhân lực từ đâu ra?. Sau đó ít lâu, cấp trên ra quyết định điều động anh Nguyễn Đình Chiến, Trưởng phòng làm Giám đốc của Trung tâm R&D Viettel, lấy tên là Công ty CP Công nghệ Viettel (Viettel Technologies JSC). Sau này định hướng chia tách, sáp nhập, phát triển thành Khối R&D: Trung tâm Nghiên cứu Công nghệ mạng Viettel, Tổng Công ty Công nghiệp Công nghệ cao Viettel và Viện Hàng không Vũ trụ Viettel.
Ngày 27-3-2006, Trung tâm Đào tạo Viettel được thành lập (trước cả Trung tâm R&D). Nhưng những câu hỏi: Trường lớp, cơ sở vật chất thế nào? Nhân lực, giáo viên lấy ở đâu?; Đào tạo nội dung gì?; Giáo trình tài liệu ra sao ?... là những câu hỏi nhất định phải giải quyết trong thực tiễn. Ban lãnh đạo Viettel giao cho anh Hoàng Mạnh Hòa ra làm Giám đốc Trung tâm Đào tạo (TTĐT), mang theo 6 nhân sự của Phòng Kỹ thuật và tôi đi theo để trợ giúp về chuyên môn, kỹ năng sư phạm. Sau đó được bổ sung thêm nhân sự, nhưng cũng chưa đầy 10 người, gồm cả giám đốc, giáo viên “cơ hữu”, nhân viên đào tạo, y tá, nấu ăn. Có 2 nhân sự đã có từ những ngày đầu, đến nay vẫn còn công tác ở Học viện là anh Trần Văn Vui tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội và chị Phạm Thị Thu Hương, Cựu sinh viên hệ dân sự, Học viện KTQS do tôi hướng dẫn đồ án và giới thiệu vào làm việc tại Phòng Kỹ thuật.
Công việc đầu tiên ở TTĐT được Tổng Công ty giao là biên soạn bổ sung ngay bộ tài liệu “Hướng dẫn lắp đặt trạm BTS” để gửi đi các vùng miền. Trước đó, chúng tôi đã biên tập khái quát, nhưng do trực tiếp làm “huấn luyện viên” nên thuận lợi đào tạo cho các đội kỹ thuật lắp trạm năm 2004, 2005. Bài toán chỉ trong 3 ngày phải xong theo chỉ đạo của Tổng Giám đốc Hoàng Anh Xuân, để kịp gửi vào miền Trung và miền Nam huấn luyện cho các đội đi thi công. Tôi phải đọc, dịch toàn bộ tài liệu “Hướng dẫn lắp đặt trạm RBS” của hãng Ericsson (Thụy Điển), biên soạn tỉ mỉ hướng dẫn quy trình lắp đặt, tích hợp, triển khai vi ba, mô phỏng hình vẽ. Việc phải đọc, dịch vài trăm trang sách, biên tập thành tài liệu, đủ nội dung để hướng dẫn anh em “biết lắp đặt được trạm” là vấn đề nan giải. Mất đúng 3 ngày đêm thức trắng, ăn uống tạm bợ, rồi cũng hoàn thành nhiệm vụ gần 120 trang.
 |
Đào tạo ứng dụng công nghệ AI ở Học viện Viettel. |
Nhưng để duy trì hoạt động của TTĐT thì phải có nhiều bộ tài liệu và giảng viên, chứ một mình tôi thì không sao làm xuể và nếu cứ làm theo cách đó. Vì vậy, bên cạnh thời gian đào tạo, tôi còn tìm người và dạy kỹ năng biên dịch tiếng Anh chuyên ngành sang tiếng Việt. May có bạn Nguyễn Minh Quang (nay là Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Công nghiệp CNC Viettel), là kỹ sư trẻ của Phòng Kỹ thuật rất thành thạo ngoại ngữ chi viện. Chúng tôi tìm kiếm thêm từ các nhân sự mới tuyển dụng. Rất may trong đợt tuyển dụng năm 2005, tôi và anh Tào Đức Thắng (lúc đó là ở Công ty Viễn thông Di động Viettel, nay là Trung tướng Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn Viettel) phỏng vấn tuyển dụng cho Công ty, phát hiện có anh Trần Văn Vui quê Ba Vì, học chuyên ngành tiếng Anh của Đại học Bách khoa Hà Nội. Nhân sự đủ tiêu chuẩn, vậy là đáp ứng đề nghị điều chuyển ngay sang làm công tác đào tạo. (Hiện nay anh Vui đã lên Trung tá QNCN, Trưởng phòng ở Học viện Viettel).
Về cơ sở vật chất, phương tiện: Trên cơ sở “Đại bản doanh” mới có ở An Khánh (Hoài Đức). Giám đốc Trung tâm Hoàng Mạnh Hòa chỉ huy cả thầy và trò tiếp tục củng cố nơi ăn nghỉ cho lớp học chừng 70 người. Bảng viết khi đó chỉ có bảng gỗ sơn cứng quèo, vẫn phải vừa viết vừa phải lăn viên phấn qua giẻ lau bảng cho mềm phấn ra mới viết rõ trên bảng đen. Còn nhà trạm thực hành, cáp quang, Trung tâm lắp đặt 1 trạm BTS trong container, nên học viên có ngay thiết bị thực tế để vừa học lý thuyết, vừa thực hành. Thời gian, chương trình đào tạo, lúc đầu khoảng 4 tháng, trong đó 1 tháng đầu huấn luyện điều lệnh quân đội, chính trị xã hội, văn hóa Viettel, mô hình tổ chức, an toàn lao động, quy tắc ứng xử.
Về chuyên môn, lý thuyết có 3 tháng, Trung tâm dành 15 ngày dạy kỹ năng dịch tiếng Anh kỹ thuật. Tiếng Anh mà kém thì tự học làm sao được chứ?. Đó là câu hỏi cứ xoáy mãi trong đầu tôi khi được Giám đốc Hoàng Mạnh Hòa giao lập chương trình đào tạo. Còn lại bổ sung các kiến thức về kỹ thuật truyền dẫn số, thông tin di động, tổng đài, hệ thống truyền dẫn, các kênh vô tuyến di động, vi ba. Đào tạo bổ sung từ những cái sơ đẳng như đơn vị đo lường điện, cho tới những nội dung phức tạp về kỹ thuật hay gặp phải, bổ túc cả toán xác suất. Bởi về cơ bản hệ thống mà các học viên sẽ tiếp xúc sẽ là dây chuyền chịu tác động của rất nhiều yếu tố ngẫu nhiên, tạp âm, can nhiễu, tín hiệu giảm dần. (Là cán bộ đã tham gia góp ý xây dựng chương trình đào tạo điện tử viễn thông của một số trường đại học, tôi đã bổ sung những bất cập này).
Vươn mình đứng dậy
Để đáp ứng chương trình đào tạo, Ban lãnh đạo Viettel đã tăng cường các cán bộ của các công ty đến đào tạo, như các anh: Tống Viết Trung, Hoàng Sơn, Tào Đức Thắng, Nguyễn Đình Chiến, Hà Minh Tuấn… và cán bộ phòng ban đến đào tạo. Năm 2005, 2006 Trung tâm đào tạo được 2 khóa học viên dài hạn, khoảng 150 kỹ sư mới tốt nghiệp từ các trường đại học kỹ thuật như Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học Công nghệ/Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Giao thông Vận tải, Trường Đại học Hàng hải, Học viện KTQS, Học viện Bưu chính Viễn thông... Ăn trưa xong từ giám đốc đến giảng viên, trợ giảng, phục vụ tạm nghỉ trong gian nhà, chỉ có cánh phản ngả ra, đầu giờ chiều lại tiếp tục công việc tới tối muộn mới ra về. Có những hôm về muộn, nhà tôi cách “giảng đường” Viettel gần 20km, phóng xe máy qua cánh đồng, trời tối đen, bà con nông dân lại đốt rơm rạ khét lẹt, đầy những con muỗi, cào cào bay rát mặt. Nhưng tất cả cán bộ, nhân viên vẫn hăng hái lăn vào công việc, không quản xa xôi, lầy lội, hành trình đào tạo vẫn tiếp tục theo quỹ đạo Viettel.
 |
Học viện Viettel (Hòa Lạc) được Hiệp hội kiến trúc sư thế giới bình chọn Top 12 cơ sở đào tạo đẹp nhất thế giới, năm 2017. |
Ban Lãnh đạo Viettel thường xuyên quan tâm, theo dõi hoạt động đào tạo và động viên kịp thời. Phó tổng giám đốc Nguyễn Mạnh Hùng chuyên trách vẫn đến thăm, kiểm tra và trao đổi văn hóa doanh nghiệp, truyền cảm hứng cho học viên. Một điểm rất khác biệt là chương trình “Môn học không thầy”, nêu cao tinh thần “tự học”, “tự nghiên cứu”, “làm việc nhóm” của học viên - yếu tố then chốt trong triết lý đào tạo của Viettel. Có thể nói, quá trình tiến lên vượt bậc của Tập đoàn cho tới nay đã minh chứng cho tinh thần tự lực, tự học, tự đào tạo của mỗi cán bộ, nhân viên. Bởi chẳng có thầy nào lại biết được đủ mọi thứ và có đủ thời gian mà dạy tất cả cho người mới vào nghề, hay đang trên đà phát triển. Chẳng có thầy nào, dù giỏi đến mấy, lại có khả năng dạy cho những người không muốn học, hay không muốn tự học mà thành người giỏi được!
Đến năm 2008, khi TTĐT đã “chạy ổn”, không chỉ đào tạo về kỹ thuật, mà còn về kinh doanh, quản lý cho các lứa lớp cán bộ, nhân viên. Tập đoàn rút tôi về trợ giúp cho Khối R&D Viettel; thỉnh thoảng tôi mới xuống giới thiệu với một số chuyên đề kỹ thuật. Từ những năm tháng “Khởi nghiệp”, “Lớp học đầu tiên”, “Môn học không thầy”, “Kỹ sư, cử nhân sau tuyển dụng”... đến nay nhiều “cựu học viên” đã trở thành những cán bộ “rất cứng” của Viettel, ở phòng ban Tập đoàn, lãnh đạo một số công ty, tổng công ty trong nước, nước ngoài. Thấm thoắt đã 20 năm kể từ những ngày đầu tiên ấy, tôi cũng đã nghỉ hưu và rút về chăm sóc hậu phương gia đình. Ôn lại kỷ niệm cảm nhận vẫn như ngày hôm qua, mùi rơm rạ cháy nghi ngút trên cánh đồng An Khánh; nhiều hôm mệt lả, “cháy hết năng lượng” cho những bài giảng, rồi lại phóng xe máy về nhà. Thời gian gắn bó với Viettel vẫn mãi là những dấu ấn, được mang sức lực, trí tuệ của mình góp phần cho sự lớn mạnh của Tập đoàn.
Mô hình gắn kết: Nhà khoa học - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp đã được Viettel thực hiện rất sớm và có thành quả tốt đẹp. Nhiều cựu học viên hệ dân sự, quân sự của Học viện KTQS và các trường kỹ thuật, kinh doanh đã gia nhập vào “Ngôi nhà Viettel”. Giờ đây, chúng ta có thể vui mừng nhận thấy sự trưởng thành vượt bậc của Học viện Viettel và Khối R&D. Sự lớn mạnh, phát triển của công nghệ, của chuyển đổi số, với nhiều khóa học online đã đóng vai trò lan tỏa học mọi lúc, mọi nơi, đưa Viettel đi tiên phong trong đào tạo nội bộ và đào tạo cho đối tác khách hàng. Tập đoàn đã sáng tạo ra những sản phẩm công nghệ cao lưỡng dụng, không chỉ phục vụ Quân đội vững mạnh mà cả dân sinh; không chỉ phục vụ nội địa mà còn xuất khẩu. Viettel đã và đang vươn mình thành một Tập đoàn công nghiệp, viễn thông toàn cầu. Một lần nữa xin chúc Trung tâm Đào tạo, rồi Học viện Viettel, đang tiến tới Học viện Công nghệ Viettel và ngày càng lớn mạnh. Chúc cho chiến lược đào tạo và chiến lược nghiên cứu phát triển của Viettel tiếp tục là “đôi cánh” bổ trợ cho nhau và đưa Viettel tiến mạnh và vươn xa, có thứ hạng toàn cầu.
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN QUỐC BÌNH, Cố vấn Kỹ thuật Viettel (2004-2018)
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.