Đây là một chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho thời kỳ phát triển mới.      

Trong bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ, năng lực ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh, không còn là lợi thế mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc trong giáo dục và hội nhập. Trẻ em và thanh thiếu niên ở nhiều quốc gia đã được tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai ngay từ bậc tiểu học. Tại châu Á, các nước như: Singapore, Malaysia, Philippines hay Ấn Độ đã triển khai thành công mô hình song ngữ, tích hợp dạy học tiếng Anh trong các môn học chính khóa. Ở Việt Nam, năng lực tiếng Anh trung bình của học sinh, sinh viên và cả lực lượng lao động vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là khi so sánh với các nước trong khu vực.

Một giờ học của học sinh Trường THCS Ngoại ngữ (Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội). Ảnh: NGỌC LINH 

 

Lần đầu tiên, tiếng Anh được xác định là ngôn ngữ thứ hai chứ không chỉ là môn học trong chương trình giáo dục phổ thông. Điều này đồng nghĩa với việc thay đổi toàn diện tư duy và phương thức tổ chức dạy học: Từ mô hình dạy ngôn ngữ sang dạy bằng ngôn ngữ, từ việc học trong sách giáo khoa sang ứng dụng tiếng Anh trong mọi ngữ cảnh học đường và đời sống. Nghị quyết 71 không chỉ đưa ra mục tiêu lớn mà còn có những điểm nhấn mang tính đột phá. Trong đó, việc chuyển đổi mô hình giảng dạy từ ngoại ngữ 1 sang ngôn ngữ thứ hai nhằm hướng tới xây dựng môi trường học đường, nơi tiếng Anh được sử dụng tự nhiên, linh hoạt và hiệu quả.

Việc giảng dạy tiếng Anh được lồng ghép chuyển đổi số từ sử dụng công nghệ, trí tuệ nhân tạo, học liệu số vào đổi mới phương pháp cả trong quá trình đào tạo và đánh giá ngoại ngữ. Nghị quyết đề cao thúc đẩy vai trò của các mô hình điểm, mô hình thí điểm, khuyến khích việc phát triển các “hạt nhân đổi mới” để nhân rộng mô hình. Đặc biệt, để đáp ứng yêu cầu mới, Nghị quyết 71 yêu cầu nâng chuẩn giáo viên và học sinh, định hướng lại chương trình bồi dưỡng giáo viên và khung năng lực tiếng Anh theo tiêu chuẩn quốc tế...

Tuy nhiên hiện nay, hệ thống giáo dục Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức. Thứ nhất là khó khăn về đội ngũ giáo viên. Vẫn còn nhiều giáo viên chưa đủ năng lực tiếng Anh hoặc chưa quen với phương pháp tích hợp ngôn ngữ trong dạy học. Việc triển khai dạy các môn: Toán, Khoa học, Lịch sử... bằng tiếng Anh đòi hỏi vừa giỏi chuyên môn, vừa giỏi ngoại ngữ, một yêu cầu cao và không dễ đáp ứng. Thứ hai là sự chênh lệch giữa các vùng, miền.

Các tỉnh miền núi, nông thôn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, giáo viên, thiết bị công nghệ. Nếu không có chính sách phù hợp, việc triển khai có thể tạo ra khoảng cách lớn giữa thành thị và nông thôn. Ngoài ra, vẫn còn tâm lý e ngại và lối mòn trong quản lý. Nhiều nhà trường vẫn coi Tiếng Anh chỉ là môn thi thay vì là công cụ giao tiếp, phát triển năng lực toàn diện. Tư duy cũ kéo theo phương pháp cũ và môi trường học tập thiếu tính cởi mở.

Hệ thống Giáo dục Victoria School (TP Hồ Chí Minh) sử dụng tiếng Anh trong các giờ học. Ảnh: MỸ DUYÊN

Là một trong những ngôi trường hàng đầu về dạy và học ngoại ngữ của Việt Nam, ngay từ tháng 9-2024, Trường THCS Ngoại ngữ (Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã chính thức triển khai thí điểm mô hình trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai (mô hình Trường học ESL-Made in Việt Nam). Mục tiêu không chỉ là nâng cao điểm số mà còn thay đổi cách học, cách dạy và cách sống trong môi trường học đường bằng tiếng Anh. Mục tiêu của mô hình là đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh và đưa tiếng Anh vào các môn học khác, đồng thời xây dựng một hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong môi trường học đường.

Mô hình thí điểm này đề cao đổi mới trong dạy-học và kiểm tra tiếng Anh. Theo đó, việc dạy học được thực hiện theo năng lực và phân hóa theo trình độ đầu vào, kết hợp mô hình CLIL (Content and Language Integrated Learning-Học tập tích hợp nội dung và ngôn ngữ). Việc kiểm tra, đánh giá được thực hiện định kỳ bằng cả hình thức bài thi và sản phẩm học tập (học tập dựa trên các dự án, bài thuyết trình...).

Trong mô hình này, nhà trường thực hiện tăng cường giảng dạy các môn học như STEM, Khoa học, Tin học, Lịch sử... một phần bằng tiếng Anh. Để bảo đảm chất lượng giảng dạy, giáo viên được tập huấn định kỳ về cả phương pháp giảng dạy và năng lực tiếng Anh với chuyên gia trong và ngoài nước. Đồng thời, tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch hành động trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai rõ ràng theo từng học kỳ. Cùng với đó, nhà trường duy trì xây dựng hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh, trong đó mọi bảng hiệu, thông báo, tên lớp... đều song ngữ, các câu lạc bộ như: UMS EngLive, English Corner, Drama Club... hoạt động định kỳ. Học sinh luôn được khuyến khích sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp, học tập, hoạt động ngoại khóa và thi đua.

Từ thực tiễn mô hình thí điểm, chúng tôi cho rằng, để triển khai mô hình trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai, chúng ta cần thực hiện đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo giáo viên, rà soát, xây dựng chuẩn năng lực mới cho giáo viên Tiếng Anh và giáo viên dạy môn học bằng tiếng Anh; đầu tư chương trình bồi dưỡng tại chỗ, kết hợp công nghệ như thực hiện các khóa học trực tuyến nâng cao năng lực sử dụng tiếng Anh, áp dụng hình thức học tập kết hợp... Khuyến khích mô hình “mentor-mentee”-giáo viên có kinh nghiệm bồi dưỡng giáo viên trẻ, giáo viên mới để ứng dụng mô hình một cách đồng đều và hiệu quả ở các môn học khác nhau.

Xây dựng tài liệu và học liệu mở cũng là một trong những nội dung quan trọng quyết định chất lượng dạy và học ngoại ngữ. Để tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai, chúng ta cần phát triển hệ sinh thái học liệu mở (OER) bằng tiếng Anh phù hợp với chương trình Việt Nam; tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là các nước ASEAN và châu Á để học hỏi mô hình. Những bài học kinh nghiệm từ thành công lẫn thất bại rút ra được từ các nước như việc dạy toán tại Malaysia, đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai tại Singapore, Hàn Quốc... là những ví dụ giúp việc xây dựng mô hình trường học nơi tiếng Anh được dạy, học và sử dụng như ngôn ngữ thứ hai tại Việt Nam.

Chúng ta cũng cần có sự điều chỉnh phù hợp với đặc thù của từng cơ sở giáo dục riêng, hay nói cách khác là xây dựng một mô hình Made in Việt Nam (sản xuất tại Việt Nam) riêng biệt. Ngoài ra, các mô hình thí điểm thành công cũng cần được nhân rộng bằng cách thành lập “Câu lạc bộ các trường học định hướng ESL” để chia sẻ kinh nghiệm, gắn mô hình trường học sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai với các mục tiêu chuyển đổi số, đổi mới quản trị và xây dựng trường học hạnh phúc. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần sớm ban hành hướng dẫn khung triển khai mô hình này trong các trường phổ thông.

Từ thực tiễn của nhà trường, có thể thấy Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị không chỉ mở ra một hướng đi mới cho giáo dục Việt Nam mà còn tạo động lực thúc đẩy các nhà trường mạnh dạn đổi mới. Việc từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai không thể làm trong một sớm một chiều, nhưng hoàn toàn khả thi nếu có quyết tâm chính trị, lộ trình rõ ràng và sự vào cuộc của toàn ngành. Các mô hình tiên phong như Trường THCS Ngoại ngữ đã chứng minh rằng: Khi giáo viên được hỗ trợ, học sinh được truyền cảm hứng, môi trường học tập được thiết kế phù hợp thì tiếng Anh không còn là gánh nặng mà trở thành cầu nối đến tương lai toàn cầu.

NGUYỄN HUYỀN TRANG, Hiệu trưởng Trường THCS Ngoại ngữ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội

*Mời bạn đọc vào chuyên mục Giáo dục Khoa học xem các tin, bài liên quan.