Những bước chuyển mạnh mẽ

Ngay sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24-10-2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017, có 23 cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) đã thực hiện thí điểm tự chủ. Quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH chính thức được luật hóa, quy định trong Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, được Quốc hội thông qua năm 2018, có hiệu lực từ tháng 7-2019. Nội dung cốt lõi của Luật Giáo dục đại học là mở rộng và nâng cao hiệu quả thực hiện tự chủ về: Phương thức tuyển sinh, tổ chức và quản lý đào tạo; cơ cấu tổ chức, biên chế; quyết định nhân sự chủ chốt; học phí. Đây được coi là một bước tiến lớn của tự chủ đại học.

Theo đồng chí Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), mục tiêu của tự chủ đại học là tối ưu hóa hoạt động của toàn hệ thống. Các trường đại học sẽ năng động, sáng tạo, hoạt động hiệu quả hơn; cơ quan quản lý tập trung làm tốt hơn chức năng giám sát và hỗ trợ; đặc biệt là nâng cao chất lượng, mang lại lợi ích hơn cho người học và xã hội. Thời gian qua, hầu hết các cơ sở GDĐH tham gia thí điểm tự chủ đều đã có sự bứt phá về chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tạo diện mạo mới cho hệ thống GDĐH Việt Nam. Kết quả thí điểm tự chủ của 23 cơ sở GDĐH giai đoạn 2015-2020 cho thấy: Tỷ lệ giáo viên có trình độ tiến sĩ tăng gần 10%; tăng thu hút thí sinh đại học, chỉ tiêu tuyển sinh tăng từ 87% lên 92%; số chương trình đào tạo được kiểm định tăng từ 1 lên 100; nhiều cơ sở GDĐH Việt Nam lọt vào bảng xếp hạng đại học uy tín của châu Á và thế giới.

Sinh viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội tham khảo tài liệu học tập trong thư viện nhà trường.

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội là một trong những cơ sở GDĐH đầu tiên của cả nước thực hiện thí điểm tự chủ. Sau nhiều năm triển khai, đến nay, cơ chế tự chủ đã mang đến cho Trường Đại học Bách khoa Hà Nội những bước chuyển mình đáng kể. Những năm qua, trường luôn lựa chọn được những sinh viên giỏi; các chương trình đào tạo luôn được cập nhật kịp thời theo xu hướng hội nhập quốc tế. Hiện trường có đội ngũ hơn 1.000 cán bộ, giảng viên; trong đó 73,5% tiến sĩ, 22,7% GS, PGS; nhà trường liên tiếp được lọt vào các bảng xếp hạng đại học uy tín của thế giới. Thực tiễn này cho thấy, cơ chế tự chủ mở ra nhiều cơ hội cho các trường đại học, từ đổi mới chương trình đào tạo, nghiên cứu khoa học đến khẳng định thương hiệu.

Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, PGS, TS Huỳnh Quyết Thắng, Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: “Với đích hướng đến là chất lượng đào tạo, chất lượng nghiên cứu khoa học của các cơ sở GDĐH, việc thực hiện cơ chế tự chủ tạo động lực cho các chủ thể tham gia, bao gồm: Giảng viên, cán bộ quản lý, học sinh và phụ huynh có trách nhiệm hơn, phấn đấu giảng dạy, nghiên cứu khoa học tốt hơn, hoạt động hiệu quả hơn”.

Gỡ khó cho các trường đại học thực hiện cơ chế tự chủ 

Kết quả bước đầu việc thực hiện tự chủ của các cơ sở GDĐH khẳng định cơ chế tự chủ là chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế đại học thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì tự chủ đại học cũng đặt ra không ít thách thức, khó khăn đối với các cơ sở GDĐH. TS Phạm Tất Thắng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội, phân tích: “Rào cản hạn chế tự chủ đại học là do quan điểm chưa thống nhất. Nhiều cơ sở GDĐH cho rằng tự chủ đại học là quyền đương nhiên các trường phải được hưởng. Ngược lại, không ít đơn vị thấy rằng, tự chủ không có nghĩa là thoát khỏi chủ sở hữu, buông lỏng quản lý mà quan trọng là thay đổi hình thức quản lý, thay đổi cách thực thi quyền sở hữu của cơ quan quản lý. Còn về phía cơ quan quản lý nhà nước vẫn nặng nề về cách tiếp cận từ góc độ tài chính, thông qua mức độ tự bảo đảm kinh phí hoạt động mà chưa có căn cứ, nguyên tắc chung để trao quyền tự chủ cho các trường”.

Theo các trường thực hiện tự chủ, một trong các nguyên nhân khiến việc thực hiện tự chủ gặp khó khăn, vướng mắc chính là sự chồng chéo, chưa đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Luật Giáo dục đại học đã quy định, mở ra vấn đề tự chủ nhưng lại đan xen với nhiều lĩnh vực khác, nhiều luật khác. GS, TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng Học viện Nông nghiệp Việt Nam cho rằng: “Muốn giải quyết trở ngại không nhỏ trong tiến trình tự chủ này thì hệ thống pháp luật phải đồng bộ, luật này hỗ trợ luật kia làm thành một chỉnh thể thống nhất và biện chứng, vừa đồng bộ, vừa rõ ràng, vừa mở, tạo niềm tin pháp lý cho các cơ sở GDĐH tự chủ và cho xã hội”.

Để gỡ khó cho các trường thực hiện tự chủ, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết: “Bộ GD&ĐT kiến nghị Quốc hội, Chính phủ rà soát, sửa đổi, bổ sung các luật, các nghị định hướng dẫn, từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ cho tự chủ đại học. Về phía Bộ GD&ĐT sẽ đẩy nhanh xây dựng, ban hành các quy chế, quy định, cẩm nang hướng dẫn; xây dựng cơ sở pháp lý quốc gia về GDĐH; hỗ trợ nâng cao năng lực các cơ sở GDĐH qua các đề án, dự án. Bên cạnh đó, bộ sẽ tăng cường công tác thanh tra, giám sát và quản lý chất lượng; tuyên truyền nâng cao nhận thức về đổi mới và tự chủ đại học”.

Trước những khó khăn, thách thức trong cơ chế tự chủ, vấn đề đặt ra là các trường đại học cần phải nỗ lực, chủ động thay đổi để đạt được các mục tiêu và ngày càng phát triển. Bài học từ Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho thấy, các trường đại học muốn thực hiện cơ chế tự chủ phải nhận thức sâu sắc rằng: Các trường được tự chủ tất cả nhưng không phải tự do mà phải nằm trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn lưu ý: “Các cơ sở GDĐH cần nâng cao năng lực quản lý và hiểu biết pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý; tăng cường công khai, minh bạch, dân chủ trong mọi hoạt động; chuẩn bị đầy đủ các điều kiện để thực hiện tự chủ trong giai đoạn tới”.

Bài và ảnh: NGUYỄN HOÀI