Cha mẹ có con học giỏi thì thường hài lòng, hãnh diện. Còn con học yếu kém thì đương nhiên chẳng ai mong muốn chút nào. Nhưng thực tế, vẫn có những người cha, người mẹ có con đạt kết quả học giỏi chưa hẳn đã vui.

Buổi sáng cuối tuần, tôi ngồi uống cà phê với một người bạn đồng niên, hiện anh đang công tác tại một viện nghiên cứu khoa học. Bạn có con gái năm nay học lớp 8. Hỏi chuyện học hành của con năm nay ra sao, bạn trả lời với nét mặt không vui: “Tôi vừa vào sổ liên lạc điện tử thì được biết điểm trung bình chung các môn học của cháu đạt trên 8,2. Như vậy, cháu đạt mức học lực giỏi. Nhưng nói thật, cháu học giỏi mà vẫn không… giỏi đâu!”. Tôi nói như trách khéo bạn: “Cậu buồn cười thật đấy. Con học giỏi phải khuyến khích kịp thời chứ ai lại không tin tưởng việc học hành của con như thế!”.

Là người am hiểu chuyện giáo dục, chuyện học hành của con trẻ từ nhiều năm nay, bạn tôi cho rằng, muốn đánh giá đúng năng lực của học sinh, không nên chỉ dựa vào những điểm số thuần túy của từng môn học. Vì nhiều giáo viên hiện nay rất “nhẹ tay” khi cho điểm học sinh, nhất là những học sinh tự nguyện đi học thêm môn mình dạy. Năm ngoái dự tổng kết năm học cho con, tôi cũng được xem toàn bộ điểm số trong năm học của lớp. Qua tìm hiểu, phân tích, so sánh, tôi thấy trong số hơn 20 học sinh giỏi của lớp, chỉ có khoảng 5-7 em là giỏi thật sự, còn là “giỏi” do thầy cô nâng đỡ. Bằng chứng là điểm kiểm tra miệng, điểm kiểm tra 15 phút (hệ số 1), các học sinh này thường được điểm rất cao, toàn 8, 9, 10; điểm kiểm tra 1 tiết (hệ số 2) thường được từ 7,5 đến 8,5 điểm. Nhưng đến điểm kiểm tra học kỳ (hệ số 3) thì nhiều em được 7 hay 7,5 điểm, thậm chí có em chỉ được 6,5 điểm. Tại sao điểm kiểm tra học kỳ của học sinh thường đạt thấp? Bởi vì đề thi học kỳ khó hơn, có độ phân hóa cao hơn và do giáo viên lớp khác chấm để bảo đảm khách quan, do đó số điểm thi học kỳ của học sinh đã phản ánh tương đối chính xác khả năng thực tế của từng em. 

Thực tế cho thấy, cái sự “giỏi ảo” này khiến cho học sinh dễ ảo tưởng về mình, từ đó thiếu ý chí phấn đấu vươn lên để học thật, thi thật, đạt kết quả thật. Thế nên có chuyện “cười ra nước mắt” khi nhiều học sinh từng liên tiếp 4 năm đạt danh hiệu học sinh giỏi ở cấp THCS nhưng vẫn thi… trượt trường THPT công lập ở tầm mức “thường thường bậc trung”.

Có lẽ nhận thấy mặt trái của những danh hiệu học sinh giỏi tràn lan ở nhiều trường, nhiều lớp trong những năm qua, gần đây, lãnh đạo ngành giáo dục đã có những động thái bước đầu để góp phần đưa việc học tập của học sinh trở lại giá trị thật. Đó là để xét tốt nghiệp THPT, điểm trung bình cả năm lớp 12 của học sinh chỉ chiếm 30% trong tổng số điểm xét tốt nghiệp (thay vì chiếm 50% như năm trước), còn lại 70% là điểm trung bình của các bài thi tốt nghiệp THPT quốc gia. Năm nay, lần đầu tiên TP Hà Nội thực hiện phương thức thi tuyển 4 môn bắt buộc, thay vì phương thức kết hợp thi tuyển với xét tuyển từ điểm học bạ như những năm trước đây.

Như vậy, một quy trình chặt chẽ, thi học kỳ, thi tuyển lên lớp 10, thi THPT quốc gia bao giờ cũng đánh giá chính xác hơn, khách quan hơn, thực chất hơn so với cách đánh giá từ các bài kiểm tra theo cảm tính của giáo viên tại trường, lớp. Vì thế, việc tổ chức các kỳ thi chặt chẽ, nghiêm túc chính là một cách phòng ngừa, giảm tình trạng “giỏi mà không… giỏi” của một bộ phận học sinh hiện nay, qua đó góp phần từng bước đẩy lùi “bệnh thành tích” trong giáo dục.

NGÔ VĂN DƯƠNG