Việt Nam có trữ lượng đất hiếm đứng thứ hai thế giới
Theo ước tính của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng đất hiếm của thế giới là 120 triệu tấn. Trong đó, trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 22 triệu tấn (chiếm hơn 18% trữ lượng đất hiếm thế giới), đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc với 44 triệu tấn (chiếm hơn 36% trữ lượng đất hiếm thế giới). Đất hiếm là một loại khoáng sản chứa 17 loại vật chất có từ tính và tính điện hóa đặc biệt. Nguyên tố trong đất hiếm là vật liệu chiến lược đối với sự phát triển của các ngành kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao như: Điện, điện tử, quang học, laser, vật liệu siêu dẫn, chất phát quang.
Bên cạnh đó, đất hiếm được dùng để sản xuất các chất xúc tác, nam châm, hợp kim, bột mài, gốm, chất phát quang. Việc chế tạo các máy điện thoại di động, ổ đĩa cứng máy tính, xe ô tô điện, pin mặt trời, tua bin gió... cũng phải dùng đến đất hiếm. Mặc dù giá trị giao dịch của đất hiếm trên thế giới hiện nay chỉ dưới 10 tỷ USD một năm nhưng đây lại là nguyên liệu chiến lược, không thể thay thế đối với nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển.
Đất hiếm tại Việt Nam phân bố chủ yếu ở vùng Tây Bắc. Khu vực này có những mỏ đất hiếm đã được thăm dò và xác định giá trị kinh tế cao. Khu vực Tây Bắc tồn tại rất phong phú các đá magma kiềm và á kiềm giàu các nguyên tố đất hiếm, đây là điều kiện thuận lợi để hình thành các mỏ đất hiếm. Hiện nay, mỏ đất hiếm kiểu quặng gốc ở tỉnh Lai Châu có trữ lượng lớn nhất cả nước, có thể khai thác theo quy mô công nghiệp. Trên địa bàn tỉnh Lai Châu ghi nhận có 4 mỏ, điểm khoáng sản đất hiếm. Một số mỏ đất hiếm cũng được tìm thấy ở các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn,...
Giáo sư, Viện sĩ Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, ý thức được tầm quan trọng của đất hiếm, Đảng và Nhà nước ta đã chú ý, thăm dò, đánh giá trữ lượng từ hơn 40 năm nay. Những nghiên cứu định hướng khai thác, chế biến, ứng dụng khoáng sản đất hiếm đã được Nhà nước đầu tư qua các chương trình khoa học-công nghệ và từ các chương trình của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan như: Phân chia, làm sạch nguyên tố đất hiếm; ứng dụng đất hiếm làm vật liệu xúc tác; chế tạo nam châm đất hiếm NdFeB; sản phẩm phân bón lá đa vi lượng chứa các nguyên tố đất hiếm...
 |
Khu vực mỏ đất hiếm ở huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Ảnh: HÀ THUẬN |
Mặc dù đã đầu tư cho nghiên cứu đất hiếm, tuy nhiên, đến nay Việt Nam vẫn chưa khai thác và chế biến sâu được đất hiếm. Nguyên nhân chính là do Việt Nam chưa có công nghệ khai thác, chế biến đất hiếm. Chỉ một số ít quốc gia có công nghệ chế biến sâu đất hiếm nhưng lại giữ bản quyền, bí mật và không chuyển giao công nghệ như: Trung Quốc, Mỹ, Australia... Ngoài ra, đầu tư cho khoa học-công nghệ vào lĩnh vực này tại Việt Nam chưa đủ và không tập trung; lĩnh vực ứng dụng đất hiếm chưa tìm được vị trí xứng đáng trong nền kinh tế thị trường.
Tập trung chế biến sâu và ứng dụng đất hiếm
Theo Giáo sư Nguyễn Quang Liêm, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam), giai đoạn khai thác và chế biến quặng tinh không mang lại hiệu quả kinh tế cao, sử dụng hóa chất chiết độc hại, gây ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, lợi nhuận kinh tế cao phần lớn ở các ứng dụng đất hiếm. Do đó, Giáo sư Nguyễn Quang Liêm đề xuất xây dựng dự án và phòng thí nghiệm nâng cao năng lực nghiên cứu, công nghệ khai thác, chế biến, trong đó tập trung chế biến sâu và ứng dụng đất hiếm trong những sản phẩm công nghiệp có giá trị kinh tế cao.
Phó giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Anh Sơn, Phó viện trưởng Viện Khoa học vật liệu kiến nghị, trong thời gian tới, Nhà nước cần đặc biệt chú trọng đến chế biến đất hiếm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, hàm lượng tổng oxit đất hiếm tối thiểu 95%; phân chia, làm sạch các oxit đất hiếm riêng rẽ phục vụ nghiên cứu và sản xuất, góp phần bảo vệ tài nguyên, môi trường; chế biến sâu đến kim loại. “Khi Việt Nam đang dần trở thành khu vực thu hút đầu tư cho các ngành xe điện, năng lượng thì việc phát triển nội lực công nghệ chế tạo kim loại đất hiếm đưa thành nguyên liệu chiến lược để nắm quyền chủ động hợp tác là hết sức cần thiết”-Phó giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Anh Sơn nhấn mạnh.
Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt cho rằng, cần tăng cường tiềm lực cho các tổ chức nghiên cứu khoa học về đất hiếm trong nước để nghiên cứu làm rõ thêm về trữ lượng và thành phần các nguyên tố đất hiếm trong các mỏ; nghiên cứu hoàn thiện công nghệ khai thác, chế biến sâu đất hiếm phù hợp với quặng Việt Nam. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt kỳ vọng Việt Nam sẽ chủ động được công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác và chế biến sâu đất hiếm phục vụ nhu cầu trong nước, hướng tới xuất khẩu, bảo đảm môi trường.
LA DUY
*Mời bạn đọc vào chuyên mục Xã hội xem các tin, bài liên quan.