Trong chuyến thăm Việt Nam kéo dài 3 ngày hồi tháng 6-2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lê-ôn Pa-nét-ta (Leon Panetta) đã trao cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh một số kỷ vật của một liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam hy sinh trong trận đánh ở tỉnh Quảng Ngãi năm 1966. Những kỷ vật này đã được một cựu binh Mỹ cất giữ trong nhiều năm. Cùng lúc đó, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã trao cho ông Pa-nét-ta 3 bức thư của một lính Mỹ chết trong chiến tranh. Các quan chức Mỹ cho hay, đây là lần đầu tiên một cuộc trao đổi kỷ vật chiến tranh diễn ra.

Tháng 6-2015, khi cuộc hội đàm giữa hai Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam và Mỹ kết thúc, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ A.Ca-tơ (A.Carter) trao tặng Bộ trưởng Phùng Quang Thanh hai kỷ vật liên quan đến những người lính Việt Nam mà phía Mỹ lưu giữ. Đó là một chiếc thắt lưng của Quân Giải phóng và một cuốn nhật ký đã ố vàng. Lúc đó, ông A.Ca-tơ đã chia sẻ: “Cuốn nhật ký này đã lưu lạc tại Mỹ 43 năm. Đây là một trong số rất nhiều kỷ vật Mỹ lưu giữ được. Nay chúng tôi mong muốn những kỷ vật này được về bên người thân của các chiến sĩ Việt Nam, để xoa dịu những nỗi đau trong quá khứ, để chúng ta cùng nhìn về một tương lai tươi sáng hơn”.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ A.Ca-tơ trao kỷ vật chiến tranh cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh, tháng 6-2015. Ảnh: Roi-tơ 

Đây chỉ là hai trong số nhiều hoạt động trao trả kỷ vật chiến tranh giữa hai bên. Người viết bài này có may mắn được chứng kiến nhiều cuộc đưa kỷ vật của các liệt sĩ Việt Nam về với gia đình, cảm xúc đọng lại cho tận đến bây giờ là “xúc động”. Có thể nào không xúc động khi sau vài thập kỷ, thậm chí nửa thế kỷ, có những người vợ mới thấy lại được một phần đời của chồng mình, hay giản đơn hơn, những người con mới biết “hóa ra chữ cha mình đẹp thế”...

Như Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ A.Ca-tơ nói, trao trả kỷ vật là một trong những phương cách hàn gắn vết thương chiến tranh tốt nhất. Với việc trao lại các kỷ vật chiến tranh này, phía Mỹ mong muốn tiếp tục việc hàn gắn những vết thương quá khứ. Về phía Việt Nam, những câu chuyện trao trả thế này lại càng không phải là chuyện hiếm. Nhiều cựu chiến binh Việt Nam cho đến thời điểm này vẫn lưu giữ các kỷ vật chiến tranh của những người lính Mỹ một thời ở bên kia chiến tuyến, và hằng ngày, hằng giờ, vẫn hy vọng có cơ hội để trao trả lại cho gia đình họ...

Thật lạ lùng, những kỷ vật chiến tranh được lưu giữ từ quá khứ đau buồn, hiện tại lại là những cây cầu bắc qua thù hận để hướng tới một tương lai tươi sáng hơn giữa quan hệ hai nước. “Tương lai của chúng ta thật tươi sáng, nhưng khi cả hai nước cùng nhau hướng về phía trước, chúng ta không được phép quên đi quá khứ. Mỹ tiếp tục duy trì cam kết sẽ làm việc với Việt Nam để giải quyết tốt các vấn đề tồn tại sau chiến tranh. Hôm nay, để tỏ lòng trân trọng cũng như tưởng nhớ đến những người lính trong quá khứ, tôi xin trao lại hai kỷ vật từ thời chiến tranh cho người Việt Nam. Quân đội Mỹ chúng tôi mong muốn và hy vọng những kỷ vật này sẽ được trao trả về cho người thân trong gia đình của người lính ấy”, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ A.Ca-tơ bày tỏ trong cuộc hội đàm hôm ấy.

Nhưng như vậy không có nghĩa là việc hàn gắn vết thương chiến tranh chỉ gói gọn có thế. Việt Nam và Mỹ, để đi đến ngày hôm nay, thiết lập được quan hệ Đối tác toàn diện, hơn 20 năm qua là những nỗ lực của biết bao con người. Trong các cuộc tiếp xúc với phía Mỹ, lãnh đạo Việt Nam bao giờ cũng nhấn mạnh đến việc hai bên tăng cường hợp tác khắc phục hậu quả trong chiến tranh. Trong cuộc gặp với Bộ trưởng A.Ca-tơ hồi tháng 6 năm ngoái, Đại tướng Phùng Quang Thanh không dưới một lần khẳng định, Việt Nam hoan nghênh Mỹ đã tham gia tích cực cùng Việt Nam trong khắc phục hậu quả chiến tranh để lại, như tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh; hỗ trợ xử lý chất độc đi-ô-xin tại Đà Nẵng và một số khu vực khác; rà phá bom mìn còn sót lại trong chiến tranh...

Không nhiều người biết, vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, chính những cựu binh Mỹ đầu tiên đã làm một việc phi thường, khi dám vượt qua hố sâu ngăn cách giữa hai bên bởi một cuộc chiến vừa qua chưa lâu, vượt qua chính hội chứng chiến tranh vẫn đang cực kỳ sâu sắc ở nước Mỹ, để dò đường cho tiến trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Từ sau những gạch nối đầu tiên đó, họ đã trở lại đóng góp cho quan hệ hai nước, khắc phục những hậu quả chiến tranh ngay ở mảnh đất họ từng muốn quên đi.

Những cái tên như Bốp-by Miu-lơ (Bobby Muller), Giôn Te-rơ-gia-nô (John Terzano), hai cựu binh Mỹ sáng lập ra tổ chức phi chính phủ Quỹ Cựu chiến binh Mỹ ở Việt Nam (VVAF) hay Choắc Xơ-xi (Chuck Searcy) và nhiều người khác nữa, từ lâu đã là những cái tên quen thuộc đối với giới báo chí Việt Nam. Quen thuộc bởi những việc họ đã và đang tiếp tục làm. Hẳn vẫn có người nhớ, Bốp-by Miu-lơ và Giôn Te-rơ-gia-nô, vào năm 1981 đã tổ chức một đoàn cựu binh Mỹ đầu tiên trở lại Việt Nam sau chiến tranh, theo lời mời của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Khi đó, quan hệ Việt-Mỹ còn cực kỳ khó khăn và đầy nghi kỵ. Nhưng Miu-lơ và Te-rơ-gia-nô đã trở thành những người tích cực vận động để bình thường hóa quan hệ hai nước.

Cho tới thời điểm này, hằng năm người ta vẫn thấy các cựu binh Mỹ thuộc nhiều tổ chức hoặc tự họ là những cá nhân, sang Việt Nam làm việc, rà phá bom mìn, dạy học cho trẻ em, chữa bệnh cho các nạn nhân chất độc da cam, thực hiện các dự án cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, trao lại các kỷ vật chiến tranh... Nhiều nghệ sĩ cựu binh sang Việt Nam giao lưu với các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ Việt Nam, và tác phẩm của họ nói về sự hòa giải của đất nước hay của cá nhân họ. Nhiều cựu binh Mỹ chọn Việt Nam, trên chính những vùng đất như: Quảng Trị, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh làm nơi sinh sống. Đại sứ đầu tiên mà Chính phủ Mỹ cử tới Hà Nội năm 1997, ông P.Pi-tơ-xơn (Peter Peterson), cũng từng là một cựu binh Mỹ. Trong nhiệm kỳ của ông, quan hệ Việt-Mỹ đã có những bước tiến dài.

Tôi đã thấy, trước Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam tại Oa-sinh-tơn D.C., nơi bức tường đá hoa cương đen khắc tên hơn 58.000 lính Mỹ tử trận ở Việt Nam, nhiều cựu binh Mỹ đã lặng lẽ cúi đầu, khóc không thành tiếng. Ở Việt Nam, nhiều dịp đi cùng các cựu binh Mỹ trở lại chiến trường xưa của họ ở Quảng Trị, Tây Nguyên..., tôi cũng thấy, người đứng một mình với những lời cầu nguyện nào đó, người làm những nghi lễ nho nhỏ riêng mình họ biết, người trở lại chiến trường cùng chính các cựu chiến binh Việt Nam ở đơn vị bộ đội Bắc Việt năm xưa từng giao tranh. Sau những chuyến đi như thế là sự giải thoát trong tâm can, là sự lạc quan, và với không ít người, là gắn bó...

Sau hơn 20 năm, từ quá khứ đầy khúc mắc và mang nặng ám ảnh, quan hệ Việt-Mỹ đã bước vào một chặng đường khác. Có lẽ, như lời Trung tá lục quân Mỹ Julian Trần, Trưởng văn phòng tìm kiếm người Mỹ mất tích (MIA) tại Việt Nam, từng nói trong một cuộc phỏng vấn cách đây ít lâu với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, “chiến tranh là việc trong quá khứ”. Thế hệ của Julian Trần không thể thay đổi được quá khứ, nhưng những gì đã qua cũng qua rồi; điều mà Trần, hay bất cứ người Mỹ, người Việt Nam nào có thể làm được vào lúc này, đó là “tạo một con đường để phát triển hợp tác, đồng thời xóa đi những đau khổ và tàn tích chiến tranh”.

NGỌC HÀ