Ngồi trước hiên nhà, hồi tưởng lại những ngày rời những cánh rừng xuống định cư ở chân Núi Chúa, bà Cao Thị Hè, thôn Đá Hang, xã Vĩnh Hải, đúc kết: “Nhờ có cuộc di dời mang tính lịch sử ngày ấy, người dân Raglay chúng tôi mới có cơ hội phát triển kinh tế, mở mang dân trí, tận hưởng cuộc sống mà ngày hòa bình, thống nhất đất nước mang lại”.

Chỉ tay về phía núi Đá Đỏ cao chừng 500m so với mực nước biển, bà Cao Thị Hè cho biết, đó từng là nơi sinh sống của đồng bào Raglay. Những năm kháng chiến, từ trên đó có thể quan sát từng đường đi của quân địch. Nhờ thông thạo núi rừng mà các thế hệ cha ông người Raglay đã kịp thời thông tin, cảnh giới để quân ta đánh giặc. Những hang đá hiểm trở đã trở thành chiến hào kiên cố che chở bộ đội. “Cách mạng kêu gọi vậy là bà con đi theo bộ đội, nam nữ đi hết, giặc tới nhà đàn bà cũng đánh. Nhà có cây súng, tôi phải xách đi bằng được. Cái gì cũng bỏ hết rồi mà cây súng không bỏ được”, bà Hè hồi tưởng.

Cán bộ biên phòng hướng dẫn bà con chăm sóc lúa nước. 

Qua câu chuyện của những người già ở xã Vĩnh Hải, chúng tôi được biết, khu vực Vườn Quốc gia Núi Chúa xưa kia từng là Chiến khu 19 của cách mạng Việt Nam trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Kẻ địch tìm đủ mọi cách để đàn áp, khủng bố chiến sĩ cách mạng, lùng tìm và giết hại người dân che giấu bộ đội, chia rẽ tình đoàn kết quân dân nhưng đồng bào Raglay ở đây vẫn một lòng theo Đảng, giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng, bộ đội chống giặc, giải phóng đất nước.

Tinh thần giác ngộ rất cao, cái gì cũng bỏ hết mà cây súng không bỏ được, một lòng theo Đảng đến ngày toàn thắng, biết bao người con Raglay như bà Hè, không ai nhớ mặt nhưng họ đã góp phần làm nên đất nước. Non sông thu về một mối, những người con Raglay khi lập lại làng cũng lấy luôn tên Đá Hang, Cầu Gãy đặt cho đơn vị hành chính để nhớ về một thời hào hùng.  

Mải miết suốt nửa cuộc đời theo bộ đội đánh giặc, người Raglay ở Vĩnh Hải lại trở về cuộc sống du canh. Mỗi năm, khi mùa mưa đến, mọi người đều phá rừng làm rẫy. Cứ thấy chỗ nào không quá dốc thì bà con cùng nhau dọn lại một khoảnh rồi đốt để gieo hạt nhưng vẫn nghèo. Bà Hè kể lại: “Thời còn ở trên núi chỉ ăn củ rừng. Nguồn nước cũng xa. Từ tờ mờ sáng, hai người trong nhà đi ra hỏm suối khiêng thùng nước về nấu ăn, rồi đi đào củ mài, nổi lửa lên nướng. Cái ăn, cái uống chỉ có vậy thôi. Đường đi cũng không có. Muốn xuống núi phải lội qua suối Lồ Ô. Mùa cạn còn đi được, mùa mưa thì nguy hiểm lắm”.

Ông Nông Sỹ Năm, Đồn trưởng đầu tiên của Đồn Biên phòng Vĩnh Hải, Bộ chỉ huy BĐBP tỉnh Ninh Thuận (nay là Ban chỉ huy BĐBP tỉnh Khánh Hòa) còn nhớ như in những ngày về với đồng bào Raglay: “Bà con làm nhà tranh mái lá đơn sơ. Nhà nào cũng đông con, quần áo không đủ mặc. Cuộc sống tự cung tự cấp, mùa giáp hạt, nhà nào cũng đói ăn từ 1 đến 2 tháng”.

Ngày đó, cái nghèo của đồng bào Raglay không chỉ là “cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc” mà còn cả nghèo cái chữ, nghèo tri thức. Trẻ con hầu như không được đi học. Cả thôn chỉ có vài người biết đọc, biết viết sơ sơ. Thượng tá Nguyễn Vinh Dự, nguyên Chính trị viên Đồn Biên phòng Vĩnh Hải cho biết: “Phụ nữ đến kỳ sinh đẻ, gia đình làm cho cái chòi ở ngoài rừng. Sản phụ phải ra chòi, tự vượt cạn ở đó. Khoảng 3 ngày sau là ẵm con về”. “Ai đẻ có bà mụ thì mụ đỡ, ai không có mụ thì tự sinh luôn. Sinh chừng 3 ngày là bắt đầu đi đào củ mài ăn”, bà Hè cho biết thêm. Chính tập tục lạc hậu này khiến sinh mệnh không ít phụ nữ gặp nguy hiểm khi hạ sinh con cái, kèm theo đó là những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe do không được nghỉ ngơi, cung cấp đủ dinh dưỡng.

Nghèo, lạc hậu kéo theo cái đói, đói kéo theo bệnh tật, bệnh tật lại kéo theo cái nghèo... Vòng luẩn quẩn ấy là nỗi đau đáu đối với những người lính biên phòng đã gắn bó với đồng bào Raglay ngay sau ngày đất nước thống nhất. Thượng tá Nguyễn Vinh Dự kể: “Lúc đó, chúng tôi đề xuất với Bộ chỉ huy BĐBP Ninh Thuận cho phép đơn vị cùng địa phương tiến hành khảo sát toàn bộ đồng bào Raglay về trình độ văn hóa, đời sống vật chất, báo cáo về trên để có kế hoạch giúp đỡ bà con phát triển kinh tế-xã hội. Chúng tôi xác định, đầu tiên là phải giúp đồng bào biết đọc, biết viết”.

Ông Cao Văn Đen, Trưởng thôn kiêm Bí thư Chi bộ thôn Cầu Gãy, xã Vĩnh Hải, cho biết: “Ngày xưa rất khó khăn, may có BĐBP nhiệt tình, bám sát giúp đỡ đồng bào mình ở đây, nhất là anh Ba Quyết vừa dạy chữ xóa mù, vừa chữa bệnh cho bà con. Đúng 4 giờ rưỡi chiều, anh có mặt ở thôn để gọi mấy anh em đến lớp học xóa mù chữ. Có một người bị tật ở chân đi không được, anh ấy phải cõng qua suối để đến lớp học”.

Giúp bà con học chữ, khám, chữa bệnh, nhưng để phát triển bền vững, bảo vệ hệ sinh thái Vườn Quốc gia Núi Chúa, hành trình bộ đội giúp dân thoát nghèo vẫn chưa thể dừng lại. BĐBP tỉnh Ninh Thuận tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương vận động đồng bào Raglay xuống núi định cư để ổn định cuộc sống. Hành trình này đầy gian nan, thử thách bởi bao đời gắn bó với rừng núi, bà con đã hình thành nên lối sống tách biệt, tự cung tự cấp. Việc thay đổi thói quen sinh hoạt, cách thức sản xuất là điều không hề dễ dàng. BĐBP phải đối mặt với những quan niệm lạc hậu, những nghi ngại sâu sắc từ phía bà con. Mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi lời khuyên, mỗi ý kiến tư vấn đều như những hạt giống nhỏ bé gieo vào lòng người, nhưng để chúng đâm chồi nảy lộc thì cần rất nhiều thời gian và sự kiên trì. Những cán bộ, đảng viên như anh Ba Quyết, Đồn trưởng Nông Sỹ Năm, Chính trị viên Nguyễn Vinh Dự và những cán bộ, đảng viên biên phòng, cán bộ xã... trở thành đại diện của Đảng không ngừng nỗ lực hướng dẫn, giúp đỡ đồng bào Raglay trong cuộc chiến đấu đẩy lùi đói nghèo.

Nhớ lại một thời "3 bám, 4 cùng" giúp đồng bào Raglay xóa bỏ hủ tục, phát triển kinh tế, Thượng tá Nguyễn Vinh Dự sôi nổi kể: “Vận động nhiều lắm. Chúng tôi nói rất nhiều, may mà bà con có tinh thần giác ngộ, gắn bó với cách mạng, một lòng theo Đảng từ xưa nay rồi nên là vận động riết bà con cũng nghe. Cũng có một số người còn suy nghĩ cổ hủ, chậm thay đổi. Vừa nói vừa làm, vận động ngày đêm, sau này gọi là bám bản đấy, mới có chuyển biến trong đồng bào. Thật sự là anh em chúng tôi cùng ăn, cùng ở, cùng làm với bà con. Có những lúc phải đi săn bắn cùng bà con để tỉ tê, tâm sự, vận động. Hễ rảnh một chút là anh em chúng tôi phân công nhau, anh xuống nhà kia, em xuống nhà nọ giúp bà con làm cỏ rẫy, trồng bắp, rồi trồng củ mì, trồng đậu. Anh em cũng ngủ nghỉ trên đó chứ đâu về nổi. Đi vài giờ đồng hồ mới lên đến nơi thì sao về nên là cứ hòa mình vào đời sống của bà con”.

Nhờ sự kiên trì của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Vĩnh Hải, bà con Raglay đã tin tưởng vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, ổn định cuộc sống dọc tỉnh lộ 702, cách nơi sinh sống trước đây chừng 4km tại hai thôn Cầu Gãy và Đá Hang. Cuộc sống tuy còn nhiều khó khăn nhưng người dân ở đây luôn sống chan hòa, đoàn kết bảo vệ rừng, bảo vệ hệ sinh thái Vườn Quốc gia Núi Chúa. Chính những người con ưu tú của dân tộc Raglay đang tiếp tục duy trì và thắp sáng ngọn lửa Đảng để chỉ lối dẫn đường cho bà con vươn lên.

 Thượng tá Nguyễn Vinh Dự điểm lại những dấu mốc quan trọng trong hành trình di dời lịch sử của đồng bào Raglay: “Năm 1992, bà con bắt đầu tụ về thôn Cầu Gãy và Đá Hang ở tập trung. Năm 1993, trường học được xây dựng. Năm 1997, hai thôn đồng bào Raglay có điện. Cho đến bây giờ, đường sá đã được đầu tư xây dựng cơ bản, bà con có thể đi xe gắn máy”.

(còn nữa)

Bài và ảnh: BÍCH NHI

* Mời bạn đọc vào chuyên mục Cuộc thi viết Vững bước dưới cờ Đảng xem các tin, bài liên quan.