Chúng tôi rời cột mốc số 0 Hà Giang từ tờ mờ sáng. Con đường vào Tùng Vài dài hơn tám mươi cây số, quanh co như một tấm lụa vắt qua lưng núi. Sau cơn bão số 11, một số đoạn mặt đường bị cày xước, ta luy dương nứt như vết dao, đất đỏ trôi thành dòng, những tảng đá còn nằm chênh vênh ở góc cua. Mây sà xuống mặt đường, trắng đục, tiếng sỏi lạo xạo dưới bánh nghe như kim châm.
Tùng Vài là vùng cao giáp biên giới, đi lại khó khăn. Những mái nhà trình tường thưa thớt bấu vào triền dốc, ruộng bậc thang ôm sườn núi như bậc thang trời. Đất ở đây không chỉ cõng cây rừng và đá mà còn cất trong lòng những ký ức chiến tranh: Mìn, đạn lép, mảnh nổ… lâu ngày nằm im, chờ một cú chạm vô tình.
Lán trại của các đơn vị rà phá vật cản Quân khu 2 dựng ở lưng chừng núi, trên mỏm đất vừa đủ phẳng để căng bạt, đặt bếp. Trước nhà chỉ huy mỗi đơn vị, trong gió núi sương giăng, lá cờ Tổ quốc hiên ngang, kiên cường bay phần phật. Những dãy nhà dựng thành vòng cung, tựa lưng vào dãy núi Chín Chu Lìn chung một nhịp thở, quyết tâm quét sạch “tử thần” trong lòng đất, trả lại màu xanh, bình yên cho dân bản.
 |
Đội rà phá vật cản Sư đoàn 316, Quân khu 2 lên bãi rà phá bom mìn. Ảnh: THANH TÚ
|
“Không vội. Không ẩu. Không bỏ sót”. Tiếng của Thiếu tá Nguyễn Thanh Tú, Đội trưởng đội rà phá vật cản Sư đoàn 316 chậm và chắc. Sáng nay trời mưa, sương núi dày đặc nên bộ đội không lên bãi rà phá bom mìn. Tranh thủ Tú tổ chức cho bộ đội huấn luyện bổ sung. Anh điểm từng thứ: Máy dò, cuộn dây đánh dấu, cọc tiêu, băng cá nhân... “Bão vừa qua, sạt lở nhiều, địa chất thay đổi, nên các đồng chí phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, làm đúng quy trình là dây an toàn của tính mạng”. Tú nói, mắt quét qua từng khuôn mặt bộ đội.
Hôm sau, tôi cùng Tú và bộ đội ngược dốc lên bãi rà ở gần đỉnh núi, sát đường biên giới. Bùn loang, rễ cây bật lên như tóc rối, trơ những tảng đá thêm đen sắc cạnh. Mỗi bước chân đặt xuống sau một hơi thở nặng. Máy dò mở lối. Bíp… bíp… Âm thanh của máy dò cùng hòa với nhịp thở, nhịp tim người chiến sĩ.
Binh nhất Ly Mí Say khom lưng. Kính bảo hộ mờ sương. Anh thận trọng bước vào vị trí “có tín hiệu”. Sau vài thao tác kỹ thuật, Say nói ngắn gọn, dứt khoát: “Báo cáo đồng chí đội trưởng: Có mìn”. Say lùi lại. Đội trưởng Tú bước lên, xác định là loại mìn 652A. Rồi anh lệnh: “Xử lý theo quy trình”. “Rõ!”. Tay Say nhẹ nhàng, dùng xẻng hớt từng lớp đất mỏng: Kiên nhẫn, cẩn trọng, chậm rãi. Lớp đất đầu tiên mỏng như vỏ hành. Rồi đến sỏi, đến rễ cây. “Tới lớp sỏi thứ hai”. Say thì thầm. Quả mìn 652A lộ ra. Say nhẹ nhàng đưa quả mìn lên khỏi mặt đất. Đây là giây phút căng thẳng nhất của công đoạn dò gỡ mìn.
Không gian im lặng. Say đưa tay vào túi công tác bên hông lấy ra một chiếc vam nhỏ vặn dưới đáy quả mìn, vô hiệu hóa kíp nổ rồi lật quả mìn lên mở nắp vô hiệu hóa miếng kẹp nổ. Mấy chục năm chôn vùi dưới đất nhưng bên trong quả mìn vẫn còn sáng loáng. Nhìn những chi tiết sáng bóng ánh lên sắc lạnh gợn trong tôi suy nghĩ rờn rợn. Say đứng thẳng. Tú tiến tới vỗ vai cậu. Không có tiếng hò reo nhưng niềm vui nảy nở ngập tràn trong lồng ngực.
Giờ ăn trưa diễn ra trên một yên ngựa giữa hai sườn dốc. Tôi ngồi xen giữa anh em, lưng tựa vào ba lô.
Vừa thong thả ăn cơm Say vui vẻ: “Nói thật, lúc sờ vào vỏ mìn sắc lạnh là tôi nghĩ đến bố mẹ và người thân. Nghĩ thế để tay khỏi run”.
Ngồi ngay cạnh, Tú tiếp lời: “Run là tốt. Run giữ mình chậm lại. Ở bãi rà, nhanh một giây có khi chậm cả cuộc đời”. “Điều gì khiến anh sợ nhất?”. Tôi hỏi Tú.
Anh đặt thìa xuống, nhìn ra dãy cọc tiêu mới cắm: “Sợ chủ quan. Sợ cảm giác quen rồi lơ là. Kẻ địch thấy mặt còn dễ chứ bom mìn hiểm nguy tiềm ẩn mình không thấy hết được mới đáng sợ”. Tú kể lần trước trên phần đất đã được làm sạch, nhưng sau trận mưa sạt nở, mọi người nghĩ an toàn ngờ đâu, nước xói lộ mấy quả mìn nằm sát đường dân sinh: “Nỗi đau của chiến tranh. Đất mỗi ngày lại đẩy ra vài ký ức”.
Cách nhau nửa quả núi, từ đội của Tú, tôi đến lán trại Đội rà phá vật cản Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Tuyên Quang. Đêm lưng chừng núi đen đặc. Gió hú qua rừng, mưa quất trên bạt.
Trước giờ ngủ, Đại úy Phạm Mạnh Tiến, Đội trưởng Đội rà phá vật cản Bộ CHQS tỉnh Tuyên Quang đưa tôi cái chăn bông vui vẻ: “Nơi đây có độ cao hơn 2.000m so với mực nước biển, nên nhiệt độ ở đây rất thấp. Đêm thường xuống dưới 10 độ C. Sương dày đặc. Nhà bạt nên sương gió lùa vào ẩm ướt chăn. Mùa thu, ngoài thành phố đang nóng bức nhưng vào đây, nhà báo phải đắp thêm tấm chăn bông mới đỡ lạnh”.
Sáng hôm sau, như thường lệ, từ các khe núi, suối mây cứ tuôn ra, che khuất tầm nhìn. Ngước nhìn trời, Tiến nói chắc nịch: “Chỉ khoảng 1 giờ nữa sương tan. Cũng là khoảng thời gian đủ để bộ đội hành quân lên bãi”. “Căn cứ nào mà Tiến chắc chắn vậy”. “Ăn ở trên này gần 1 năm, tôi đã cảm nhận được thời tiết nơi đây qua từng nhịp thở”. Tiến nói xong cười sảng khoái.
Chúng tôi đi vào tuyến mới, lách qua một bờ lau ngã rạp mới bị bão quật. Hạ sĩ Vàng Mí Sinh giơ tay: “Báo cáo đội trưởng có mìn”. Nét mặt Tiến khẽ căng lên. Anh gật đầu: “Thực hiện theo quy trình”. Gió thốc, mang theo hơi lạnh. Sinh quỳ êm trên đất ướt, vệt bùn loang trên gối. Những thao tác thuần thục đến mức thời gian gần như ngừng lại. Sau một khoảng thời gian nghẹt thở, cuối cùng Sinh đã hóa giải thành công quả mìn MN-79. Cả sườn núi nhẹ đi như vừa chút được gánh nặng.
 |
| Những quả mìn sót lại sau chiến tranh được đưa ra khỏi lòng đất. |
Buổi tối, bếp lửa bập bùng. Tôi vừa ghi chép vừa nhấp chén trà nóng. Tiến trải cuốn sổ tay, lôi tấm ảnh gia đình ra nói: “Vợ tôi vừa gọi, con gái hỏi sao hơn hai tháng rồi chưa thấy bố về”. Trong lòng tôi chợt xúc động. Đã gần chục năm nay tôi thường đến với các đội rà phá vật cản tại các điểm nóng. Thấu hiểu nỗi khó khăn vất vả của bộ đội khi phải ăn rừng, ngủ núi, uống nước suối. Tôi hỏi: “Mệt thế này, sao lại xung phong đi tuyến khó?”
Tiến cười, mắt nhìn ra phía sương đêm: “Vì nơi biên cương máu thịt của Tổ quốc, cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn. Phải làm sạch mìn người dân mới có đất canh tác. Mới yên tâm bám đất bảo vệ biên giới anh ạ!”.
Trầm ngâm giây lát Tiến nói thêm: “Ngày trước ông cha ta đánh giặc ngày trước cũng vì dân. Chúng tôi bây giờ dọn mìn càng vì dân. Khác nhau ở tiếng súng nhưng vẫn sáng ngời tinh thần, truyền thống vì dân”.
Rồi như đang soi chiếu vào lòng mình, Tiến nói chậm rãi như đang bày tỏ: “Chúng tôi vẫn hay nói với nhau hy sinh không phải là điều mình mong. Nhưng sẵn sàng là điều mình phải có. Sẵn sàng không phải để chết, mà để sống đúng với lời thề. Trong lòng đất còn mìn là phải đi. Còn mìn là còn rà phá”.
Sau cả tuần cùng ăn, ở, lên núi cùng bộ đội, tôi được Tú và Tiến cho biết, hơn 200ha ở Tùng Vài, đã được đơn vị các anh làm sạch bom mìn. Đứng dưới lá cờ Tổ quốc, nắng vàng chiếu qua rạng rỡ và ấm áp, tôi nghĩ về những con đường đã mở và con đường sẽ mở. Nghĩ về những bước chân của dân bản, học sinh, cô giáo sẽ đặt chắc trên lối đi mới. Nghĩ về những đêm mưa gió, Tú, Tiến cùng các đồng đội vẫn không nguôi ngoai đau đáu về những vết thương của vùng đất nơi biên cương.
Tiến xuất hiện phía sau tôi, giọng sâu lắng tâm tình: “Qua bài viết, anh nói giúp chúng tôi, dưới cờ Tổ quốc vinh quang, chúng tôi sẽ còn lên núi. Vào rừng. Và cúi xuống gỡ mìn”. Tú đứng cạnh, nói thêm, lời nhẹ nhàng mà rắn rỏi: “Trong lòng đất mẹ còn bom mìn chúng tôi còn đi, còn rà phá”.
Ngay giây phút đó, trong lòng tôi khởi lên niềm vui, sự tin tưởng vững vàng đối với Tú, Tiến và những người đồng đội. Ở vùng biên giới Tùng Vài nơi thâm sơn cùng cốc, đi lại khó khăn, cuộc sống thiếu thốn, các anh vẫn cần mẫn chăm chỉ, bằng những thao tác tỉ mỉ, hàng ngày gom góp từng hạt bình yên, đong đầy vào cuộc sống của người dân. Để một ngày, khi cơn mưa tràn về, chỉ còn bùn đất trôi đi. Không còn tiếng nổ nào phải lo. Không còn nỗi sợ giấu trong đất. Trẻ em được vui vẻ, hồn nhiên chạy qua sân trường. Tiếng cười trong như nước suối. Những con đường ngoằn ngoèo trở thành mạch nối bình an, ôm lấy sườn núi, nối Tùng Vài với phần còn lại của Tổ quốc.
(còn nữa)
* Mời bạn đọc vào chuyên mục Cuộc thi viết Vững bước dưới cờ Đảng xem các tin, bài liên quan.