21 giờ ngày 20-9-1965, tôi và 3 người bạn cùng tốt nghiệp được xe quân sự đưa thẳng từ Hà Nội lên sân bay Đa Phúc (bây giờ là sân bay Nội Bài). Sáng 21-9-1965, tôi được đưa về một đại đội thợ máy thuộc Trung đoàn Không quân tiêm kích 921 (sau này được phong danh hiệu Trung đoàn Không quân Sao Đỏ anh hùng) và làm phiên dịch cho đoàn chuyên gia Liên Xô đang giúp Việt Nam lắp ráp máy bay Mig 17 và Mig 21.

Những ngày đầu làm việc tôi còn nhiều bỡ ngỡ, chưa hiểu hết các thuật ngữ kỹ thuật về máy bay, về cơ khí, vô tuyến điện, quân giới... Song các chuyên gia rất nhiệt tình giảng giải, giúp đỡ thông qua những công việc cụ thể. Bên cạnh đó, tôi còn hỏi thêm ở các đồng chí Việt Nam từng học ở Liên Xô về nên tôi nhanh chóng nắm bắt được công việc. Tôi rất ấn tượng với các chuyên gia Liên Xô. Họ làm việc rất nhiệt tình và trách nhiệm, tận tình giúp đỡ các kỹ sư, thợ máy lắp ráp của ta. Chúng tôi làm việc chủ yếu vào ban đêm từ 7 giờ tối đến 7 giờ sáng (vì ban ngày máy bay Mỹ thường xuyên đánh phá). Công việc rất vất vả, nhiều đêm đang làm việc thì có báo động, tất cả phải chui xuống hầm trú ẩn. Đôi khi thiếu hầm, chúng tôi phải chui xuống cả đường cống thoát nước của sân bay nhưng các chuyên gia không hề kêu ca, sợ sệt. Hằng ngày, họ luôn hỏi tôi về tình hình chiến sự tại miền Nam Việt Nam. Một số chuyên gia còn đề nghị tôi dạy họ hát bài “Giải phóng Miền Nam” bằng tiếng Việt để họ có thể cùng hát với các chiến sĩ ta trong những lúc nghỉ giải lao hoặc vào ngày lễ.

Tác giả và các phi công Liên Xô bên hầm trú ẩn.

Sau thời gian lắp ráp, bay thử và chuyển giao cho ta số máy bay theo kế hoạch, các chuyên gia lắp ráp rút dần về nước và tôi được chuyển về công tác tại Ban tham mưu Trung đoàn. Ở đây, tôi làm phiên dịch cho các lớp học chuyển loại từ máy bay Mig 17 sang Mig 21. Các phi công Liên Xô rất nhiệt tình trong giảng dạy lý thuyết và thực hành trên buồng lái. Sau khi học xong lý thuyết các phi công của ta được thực hiện bay kèm trên máy bay huấn luyện (phi công ta ngồi ở buồng lái trước, phi công Liên Xô ngồi ở buồng lái sau). Tôi đã được dịch cho các phi công nổi tiếng của ta như Trần Hạnh, Phạm Ngọc Lan, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Văn Cốc, Đồng Văn Đe... Tôi đặc biệt ghi nhớ một phi công Liên Xô là Andrey Chaban, Trưởng đoàn chuyên gia tại sân bay. Ông luôn cẩn thận trong từng bài giảng cho các phi công Việt Nam, truyền đạt những tình huống trên không khi máy bay gặp trục trặc kỹ thuật, về những tình huống trong không chiến, cách tiếp cận máy bay địch ở vị trí có lợi nhất để tiêu diệt địch, cách xử lý để tránh tên lửa của địch. Sau mỗi lần bay kèm phi công Việt Nam trở về, ông đều nhận xét tỉ mỉ, chỉ ra cái đúng, cái sai trong các tình huống xử lý trên không.

Hằng ngày, các chuyên gia luôn theo dõi tình hình chiến sự ở miền Nam Việt Nam và việc đánh phá miền Bắc của máy bay Mỹ. Ông Andrey Chaban đề nghị lập một bảng theo dõi số máy bay Mỹ bị bắn rơi hằng ngày, hằng tháng để các đoàn chuyên gia Liên Xô được biết.

Tác giả và chuyên gia dẫn đường bên bảng thống kê máy bay Mỹ bị bắn rơi mỗi ngày.

Khi Mỹ ném bom hạn chế miền Bắc, các chuyên gia Liên Xô rút dần về nước. Tôi được xuất ngũ vì lý do gia đình và được chuyển về làm phiên dịch tại công trình xây dựng đường ống xăng dầu-một công trình có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ chiến tranh. Công trình này kéo dài từ cảng Bãi Cháy (Quảng Ninh) đi qua các tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên về đến kho xăng Nhân Vực thuộc Hà Tây (cũ). Công trình do Liên Xô giúp đỡ khảo sát, thiết kế, thi công và hướng dẫn sử dụng. Khi đó là thời chiến nên công trình được mang mật danh là công trình thủy lợi B.12 (hiện nay tại Bãi Cháy Quảng Ninh có Công ty Xăng dầu B12 thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam).

Chuyên gia Liên Xô và cán bộ, công nhân Việt Nam tham gia xây dựng công trình đường ống xăng dầu B.12.

Làm việc tại đây, tôi tiếp tục có nhiều kỷ niệm đẹp và sâu sắc về các chuyên gia Liên Xô. Công việc rất vất vả, tuyến đường ống đi qua nhiều địa hình hiểm trở như đồi núi cao, đồng ngập nước, đầm lầy, sông suối; điều kiện làm việc chủ yếu là ngoài trời, nóng bức về mùa hè, giá rét về mùa đông, máy bay Mỹ lại thường xuyên đánh phá. Tuy nhiên, các chuyên gia làm việc nhiệt tình, dạy các công nhân Việt Nam học lái các máy thi công (máy đào, máy ủi, máy xúc, máy hàn kỹ thuật cao trong các bể chứa xăng dầu đường kính lớn...). Hằng ngày, tôi cùng ông kỹ sư trưởng - Phó đoàn chuyên gia- đi bộ dọc theo tuyến ống với cự ly dài nhiều km.

Khi công trình cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 6-1974, tôi được chuyển về làm việc tại Phòng hợp tác Quốc tế - Bộ Vật tư và phiên dịch cho cố vấn Liên Xô của Bộ trưởng Trần Sâm và sau đó là Hoàng Đức Nghi. Tháng 9-1979, tôi được đi cùng đoàn của Bộ Vật tư do Thứ trưởng Nguyễn Văn Thanh dẫn đầu sang Moscow dự cuộc họp về dữ trữ vật tư nhà nước trong khuôn khổ của Hội Đồng tương trợ kinh tế (viết tắt là SEV) của các nước XHCN. Trong những ngày họp, phía Liên Xô đã rất quan tâm giúp đỡ về mọi mặt cho đoàn Việt Nam. Đại diện của phía Liên Xô đã đưa ra nhiều ý kiến tư vấn hữu ích cho phía Việt Nam cách cải tiến công tác tổ chức mạng lưới cung ứng vật tư, biện pháp sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các loại vật tư trong nền kinh tế quốc dân, tiêu chuẩn hóa công tác đề bạt và bổ nhiệm cán bộ...

Trong các năm 1984, 1985, 1987 tôi được chọn làm phiên dịch cho ba đoàn cán bộ lãnh đạo cao cấp của ta (như các đồng chí Mai Chí Thọ, Phạm Thế Duyệt, Đỗ Quốc Sam, Lê Ất Hợi, Nguyễn Tài...) sang học tập mỗi khóa 4 tháng tại Viện Hàn lâm kinh tế quốc dân trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô (viết tắt là ANX). Tôi đã có nhiều kỷ niệm trong quá trình đi dịch cho các đoàn này và được cùng đoàn đi khảo sát thực tế tại Moscow, Leningrad, Tbilisi (Cộng hòa Gruzia), Askhabat (Cộng hòa Turkmekistan),  Kishinev (Cộng hòa Moldova). Ở những nơi khi đoàn ta đến, tôi đều được chứng kiến những tình cảm tốt đẹp của nhân dân Liên Xô đối với đoàn. Họ đã đón đoàn bằng nghi thức trang trọng với bánh mì và muối.

Năm 1990, khi Bộ Vật tư sát nhập với Bộ Nội thương, tôi được chuyển về công tác tại Tổng công ty Thép Việt Nam và làm việc với Đoàn chuyên gia Liên Xô (và sau đó là Liên bang Nga) sang giúp ta khảo sát thiết kế công trình mỏ quặng sắt Thạch Khê tại Hà Tĩnh. Các chuyên gia Nga đã giúp khảo sát địa chất lập bản đồ khu mỏ, xác định trữ lượng của mỏ, chất lượng và thành phần quặng của mỏ và các phương án thi công và khai thác trong tương lai…

Trong suốt cuộc đời gần 40 năm công tác của tôi từ khi tốt nghiệp đại học năm 1965 gia nhập quân đội cho đến khi nghỉ hưu (tháng 1-2005) tôi đã được làm việc với các chuyên gia quân sự, dân sự của Liên Xô và Liên bang Nga. Các chuyên gia này đã giúp đỡ ta rất nhiệt tình và có nhiều đóng góp cho quân đội ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ và trong công cuộc xây dựng kinh tế của Việt Nam sau chiến tranh, họ đã để lại trong tôi những kỷ niệm không bao giờ quên.

Bài và ảnh: TRẦN VĂN VÂN (Cựu chiến binh)