Trong khi đó, lợi ích từ cải cách thể chế, chỉ xét về các hàng rào phi thuế mà CPTPP mang lại có thể giúp GDP Việt Nam tăng tới 10%. Hiệp định CPTPP và các hiệp định thương mại tự do (FTA) chính là cơ hội nhưng cũng là sức ép, là tiêu chuẩn để Việt Nam phải thực hiện cải cách mạnh mẽ hơn nữa nền kinh tế vì lợi ích và nhu cầu của chính mình. Nếu không thực hiện cải cách quyết liệt thì có thể những cơ hội lại trở thành rủi ro.

Nỗ lực cải cách cần đến từ nhiều phía, trong đó, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp là trọng tâm. Thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều nội dung để cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư. Tất cả bộ, ngành đều thực hiện giảm ít nhất 50% các mặt hàng phải kiểm tra chuyên ngành trong xuất, nhập khẩu. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã thực hiện các thủ tục hành chính công ở cấp độ 3, 4. Chính sách được công khai trên các cổng thông tin điện tử. Các lĩnh vực thuế, hải quan tác động trực tiếp tới doanh nghiệp và trước đây có rất nhiều phiền hà, tiêu cực thì nay đã được tập trung các giải pháp để cải thiện. Thời gian nộp thuế từ 537 giờ năm 2013 đến nay chỉ còn 170 giờ. Thời gian giải phóng hàng xuất, nhập khẩu giảm từ 42 giờ xuống còn 34 giờ. Phương pháp quản lý chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Với các công nghệ, phương pháp quản lý, quy trình mới, môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thông thoáng, đơn giản và minh bạch hơn. Trong thời gian tới, để tiếp tục thực hiện cải cách, Chính phủ nên có lộ trình cải thiện các vấn đề theo từng nhóm, từng ngành cụ thể.

Ảnh minh họa. TTXVN.

Cùng với việc cải cách công nghệ, quy trình thì cải cách chất lượng cán bộ, công chức Nhà nước cũng phải tiến hành song song. Vì dù công nghệ có hiện đại tới đâu mà cán bộ, công chức không đủ trình độ để ứng dụng thì hiệu quả sẽ giảm. Quy trình dù có đơn giản, hợp lý tới đâu, nhưng con người vẫn hoàn toàn có thể tìm được các kẽ hở để tư lợi. Nếu nguồn nhân lực có chất lượng và đạo đức không tốt thì chất lượng tham mưu, xây dựng chính sách sẽ yếu kém, sẽ làm tăng nguy cơ thất thoát nguồn lực, giảm khả năng cạnh tranh quốc gia.

Về phía doanh nghiệp cũng cần phải tự vạch kế hoạch cải cách cho chính mình để tăng khả năng hấp thụ chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn khá mù mờ về nội dung của các FTA, chưa có kế hoạch hành động để tận dụng cơ hội từ các FTA. Rồi trình độ ngoại ngữ kém cũng là rào cản lớn đối với doanh nghiệp trong hội nhập. Điều đó phải sớm thay đổi.

Một vấn đề cần suy nghĩ là trình độ phát triển của Việt Nam rõ ràng còn kém hơn nhiều nước trong khu vực. Nếu ta chỉ thiết kế những chính sách theo tiêu chuẩn hiện có mà các nước cũng đang thực hiện thì rất khó để đất nước có thể vượt lên. Vì vậy, rất cần những chính sách kinh tế, các giải pháp vượt trội. Nhưng chính sách kinh tế vượt trội như vậy thường có tác động rất lớn. Do đó, khi thiết kế cần tính được hết các tác động, tiến hành một cách chặt chẽ, thận trọng và rất cần những sự thấu hiểu, đoàn kết, nhất trí, có niềm tin, chấp nhận hy sinh bớt lợi ích riêng, lợi ích nhóm, vì lợi ích chung, lợi ích của đất nước.

Nói đến cải cách là nói đến những thay đổi lớn, triệt để nhằm đạt tới sự tiến bộ. Do đó, cần phải có quyết tâm lớn, sự đồng lòng lớn thì mới có thể thực hiện cải cách thành công.

HỒ QUANG PHƯƠNG