Vấn đề tự chủ đại học cũng là một trong những điểm nhấn trong dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học được đưa ra lấy ý kiến tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XIV.
Tự chủ đại học là xu hướng chung của các nền giáo dục tiên tiên trên thế giới. Mỗi nước có mô hình tự chủ, mức độ tự chủ không giống nhau, nhưng thực tiễn cho thấy, cái được lớn nhất của tự chủ đại học là các cơ sở giáo dục đại học sẽ vận hành thuận lợi, hiệu quả hơn khi họ được nắm “vận mệnh” của chính mình. Vì bản thân “tự chủ đại học” đã bao hàm quyền tự quyết định những vấn đề cơ bản liên quan đến quá trình đào tạo đại học, từ đó bắt buộc các cơ sở giáo dục đại học phải tự thân nỗ lực vươn lên để nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời tăng cường sức cạnh tranh lành mạnh để khẳng định vị thế, uy tín của trường mình.
 |
Ảnh minh họa. Nguồn: Báo Công thương |
Ở nước ta, triển khai mô hình tự chủ đại học, 3 năm qua đã có 23 trong tổng số 170 cơ sở giáo dục đại học công lập thực hiện tự chủ thí điểm. Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học tự chủ bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan như chất lượng đầu vào tốt hơn, nguồn thu tài chính dồi dào hơn, thương hiệu nhà trường hấp dẫn hơn đối với người học và xã hội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học, lộ trình thực hiện quyền tự chủ đại học ở nước ta còn chậm. Vì quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học dù đã được Thủ tướng Chính phủ đề ra cách đây 15 năm khi ban hành Điều lệ trường đại học, nhưng từ đó đến nay, vấn đề tự chủ đại học còn nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, như lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thừa nhận là do chính sách, pháp luật về tự chủ đại học chưa đồng bộ, bất cập. Bên cạnh đó, nhiều cơ sở giáo dục đại học thực hiện thí điểm tự chủ vẫn chưa chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện tự chủ; năng lực quản trị đại học của một số trường chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nhất là cơ chế bảo đảm tính công khai, minh bạch và giải trình còn hạn chế.
Tự chủ đại học là một thuộc tính cần thiết của đại học thế giới. Muốn thoát khỏi “vùng lõm” trên bản đồ giáo dục đại học quốc tế, ngoại trừ các trường đại học đào tạo lĩnh vực đặc thù, còn lại phần lớn các cơ sở giáo dục đại học ở nước ta cần sớm chấm dứt tư duy bao cấp. Bởi bao cấp chính là lực cản khiến nhiều trường đại học chậm đổi mới nội dung chương trình, phương pháp đào tạo, không nỗ lực tìm tòi, sáng tạo để bứt phá, vượt lên chính mình. Các cơ sở giáo dục đại học chỉ có thể trưởng thành, vững mạnh và tự tin hội nhập với giáo dục đại học quốc tế khi ý thức tự chủ ngày càng được khẳng định, quyền tự chủ ngày càng được mở rộng và thực hiện quyền tự chủ ngày càng dân chủ, công khai, minh bạch.
Tất nhiên, phải thống nhất nhận thức rằng, tự chủ đại học nằm trong phạm vi tự chủ về học thuật, tổ chức bộ máy, tài chính là chủ yếu; còn những vấn đề căn bản liên quan đến mục tiêu, nội dung chương trình, chất lượng giáo dục vẫn phải được kiểm soát, giám sát bởi các cơ quan quản lý nhà nước. Hay nói cách khác, cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò “bà đỡ” trong việc kiến tạo mô hình, xác định mục tiêu và kiểm định chất lượng giáo dục, còn cơ sở giáo dục đại học được quyền tự chủ những điều kiện cần thiết để không ngừng nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Giải quyết tốt mối quan hệ này chính là tháo gỡ “nút thắt” cho giáo dục đại học Việt Nam phát triển trong thời gian tới.
ANH THẢO