QĐND - Sau ngày 10-10 (hạn chót để các trường đại học, cao đẳng hoàn tất việc nhận hồ sơ xét tuyển nguyện vọng 3), hàng loạt các ngành học của các trường đại học, cao đẳng đã phải đóng cửa vì lâm vào tình trạng không tuyển đủ chỉ tiêu.

Ảnh minh họa/Internet

Nguyên nhân dẫn đến thảm cảnh trên là việc đua nhau mở nhiều ngành học mới, nhiều trường đại học mới quá dễ dàng. Thêm vào đó, khâu hậu kiểm còn “lỏng”, dẫn đến những kẽ hở để các trường đại học, cao đẳng không thực hiện đúng những cam kết về chất lượng đào tạo. Vấn đề này đã được cảnh báo mạnh mẽ, nhưng việc các trường đại học bung ra vẫn như nấm sau mưa và cũng không phủ nhận nhiều nhà kinh doanh giáo dục đã hốt bạc. Nhưng rồi "dòng chảy đại học" đã được thị trường "nắn" lại bằng cách nhiều ngành học đóng cửa, nhiều trường đại học lâm vào tình trạng "vơ vét" sinh viên!

 Tình trạng “cung vượt cầu” quá nhanh khiến ngày “sập tiệm” của một số ngành học đến sớm và các nhà đầu tư bắt đầu hiểu rằng: Giáo dục không phải là lĩnh vực dễ đầu tư! Nhưng chịu thiệt thòi nhiều hơn là những sinh viên đã và đang học ở các ngành mới mở ngoài công lập. Cơ sở vật chất của nhiều trường ngoài công lập chủ yếu đi thuê, nên không bảo đảm được khâu thực hành. Giáo trình được soạn một cách vội vàng, nặng tính lý thuyết mà không có tính ứng dụng, khiến cho các sinh viên ra trường không đủ năng lực để hoàn thành công việc. Nhưng xét rộng ra, thiệt hại lớn nhất chính là đất nước đã bỏ lỡ một cơ hội để hình thành một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, khiến cho việc phát triển kinh tế-xã hội sẽ gặp không ít khó khăn. Mối quan hệ nhân-quả này đã được nhà nghiên cứu giáo dục Phạm Anh Tuấn chỉ rõ: “Nhà trường thất bại thì cả xã hội thất bại”.  

Bộ Giáo dục-Đào tạo đã ban hành Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT ngày 17-2-2011: “Quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học, trình độ cao đẳng”. Thông tư này đã quy định những điều kiện bắt buộc để được mở ngành đào tạo và có quy trình kiểm tra, xác nhận các điều kiện thực tế về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất và chương trình đào tạo. Đây có thể xem là bước đi đúng, đáng hoan nghênh, nhưng dẫu sao vẫn chỉ là giải pháp tình thế.

 Về lâu dài, giáo dục đại học cần một chiến lược xuất phát từ một triết lý giáo dục phục vụ cộng đồng. Những người có ý định mở một ngành học mới cần phải tránh tư duy “thương mại hóa”. Giáo dục là để nâng cao trình độ chất lượng nhân lực, góp phần phục vụ đắc lực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước chứ bản chất của giáo dục không phải là một hoạt động kinh doanh thuần túy. Vì vậy, các trường đại học, cao đẳng phải khảo sát nhu cầu nhân lực mà các địa phương đang cần, tránh tình trạng đào tạo tràn lan kiểu “sống chết mặc bay” làm lãng phí nhân lực đã được đào tạo. Các trường đại học cần phải được phân tầng hợp lý để chia sẻ trách nhiệm đào tạo. Không thể để tình trạng như ở tỉnh nọ, một ngành đã đủ biên chế ở địa phương là “sư phạm tiểu học” mà hai trường đại học trong tỉnh đó vẫn cứ tuyển sinh hằng năm, trong khi tỉnh đó lại thiếu các giáo viên mầm non, ngoại ngữ và tin học. Giáo dục đại học cần tập trung vào các ngành công nghệ cao, bởi dù có nhập công nghệ hiện đại nhưng không có người sử dụng thì hiệu quả sản xuất không thể đạt mức tối đa.

Từ nay đến năm 2020-cái mốc hoàn thành mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại không còn nhiều thời gian. Yếu tố con người là cái gốc của mọi thành công, vì vậy nền giáo dục đại học cần có những thay đổi cơ bản và toàn diện, đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao để đất nước phát triển bền vững.

Trần Hoàng Hoàng