Những ngày gần đây, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Trị đang phải “giải cứu” dưa hấu và ớt cho nông dân. Ngoài ra, còn các cuộc “giải cứu” củ cải, bí đỏ… ở một số tỉnh, thành phố phía Bắc. Thực trạng trên là biểu hiện theo một cách khác của nỗi ám ảnh được mùa, mất giá đối với nông dân.

"Giải cứu" nông sản là việc làm đầy nhân văn của cộng đồng xã hội xuất hiện trong mấy năm gần đây, nhằm mua nông sản ế thừa, giúp người nông dân giảm bớt thiệt hại. Thế nhưng, mật độ “giải cứu” ngày càng dày và càng nhiều loại nông sản cần được “giải cứu”, khiến việc "giải cứu" bị mất dần đi ý nghĩa.

Thu hoạch dưa hấu ở Quảng Nam. Ảnh minh họa: Báo Dân trí.

Về thị trường, có thể thấy, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam năm 2017 ước đạt 36,37 tỷ USD. Tuy nhiên, sản phẩm nông, lâm, thủy sản của Việt Nam chưa thực sự tham gia vào chuỗi nông lâm thủy sản thế giới. Một số sản phẩm có tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, như cá tra, lâu nay vẫn chưa có thương hiệu nên hay gặp rào cản kỹ thuật. Như thế, thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản Việt Nam chưa thật bền vững.

Còn về tổ chức sản xuất thì cả ớt và dưa hấu-các sản phẩm cần được "giải cứu" thời gian qua-đều không nằm trong cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chính của nông nghiệp Việt Nam. Đây chỉ là sản phẩm mùa vụ, phụ thuộc nhiều vào quan hệ thương mại, xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới. Do đó, rủi ro của việc sản xuất mà không có đầu ra lại càng cao.

Một nguyên nhân khiến dư thừa nông sản được nêu nhiều thời gian qua là do người sản xuất-ở đây chủ yếu là người nông dân, thiếu kiến thức về thị trường, không tuân thủ quy hoạch, không điều tiết sản xuất phù hợp với diễn biến thị trường. Thậm chí có tâm lý canh tác theo kiểu phiêu lưu, cố tình trồng dưa hấu vì hy vọng đầu vụ giá thấp, nhưng cuối vụ giá lại cao.

Trách người nông dân thì dễ, nhưng nếu chỉ trách người nông dân mà không thấy những giải pháp chủ động, hữu hiệu từ phía chính quyền thì nỗi ám ảnh phải "giải cứu" nông sản còn kéo dài. Cần phải phân tích rõ hiệu quả của giải pháp đã được đưa ra trong thời gian qua như thế nào. Ví dụ, việc hỗ trợ cung cấp thông tin, dự báo nhu cầu thị trường cho nông dân đã thực hiện ra sao? Việc bảo đảm quy hoạch thế nào? Liên kết tiêu thụ giữa doanh nghiệp và hộ nông dân đã thực hiện tới đâu...? Rõ ràng, nếu như doanh nghiệp tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực nông nghiệp, với khả năng tổ chức sản xuất, quản trị và bán hàng hơn hẳn các hộ nông dân đơn lẻ thì việc tìm đầu ra cho nông sản sẽ tốt hơn.

Hơn nữa, một nền nông sản hàng hóa mạnh thì các khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch phải có công nghệ tiên tiến; rồi khả năng vận chuyển nhanh hàng hóa từ nơi sản xuất tới nơi tiêu thụ cần phải tốt. Ấy thế nhưng, đây vẫn là các khâu yếu của ngành nông nghiệp Việt Nam. Vì thế, nông dân Việt Nam sẽ luôn bị thúc ép về mặt thời gian tiêu thụ nông sản (nếu không nông sản sẽ bị hư hỏng) và không gian tiêu thụ cũng hạn hẹp ngay thị trường nội địa, vì khả năng chuyển hàng hóa từ vùng này sang vùng khác còn yếu. Đây là những yếu tố khiến nông sản dễ bị ép giá. Nếu những điều này chưa được cải thiện sớm thì nỗi ám ảnh ế thừa nông sản của người nông dân, dẫn tới xã hội phải "giải cứu" sẽ chưa thể tìm được lối thoát.

 HỒ QUANG PHƯƠNG