Hơn 30.000 tỷ đồng đầu tư vào 5 dự án kém hiệu quả, dù ngừng hoạt động cũng vẫn phải trả hàng trăm tỷ đồng mỗi năm cho lãi vay và chi phí quản lý. Ngay cả việc duy trì hoạt động cũng vẫn thua lỗ hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Điều đó khiến ai cũng thấy xót xa. Từ 5 dự án này đặt ra 4 vấn đề lớn cần có câu trả lời thỏa đáng: Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, trách nhiệm của doanh nghiệp đến đâu, tháo gỡ như thế nào, làm gì để không xảy ra tình trạng tương tự như vậy nữa?

leftcenterrightdel
Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XIV. Ảnh: TTXVN 
Rõ ràng, doanh nghiệp và lãnh đạo doanh nghiệp không thể tránh khỏi trách nhiệm khi quyết định đầu tư không hiệu quả. Ngay từ khi lập dự án, từng cá nhân liên quan đã phải nhận định rất rõ từng khó khăn, rủi ro có thể mắc phải khi triển khai dự án, như sự biến động của thị trường, rủi ro về chênh lệch tỷ giá, sự trượt giá của các yếu tố đầu vào… Từ đó có từng kịch bản tương ứng để xử lý khi xảy ra tình huống. Ngoại trừ những yếu tố khách quan không thể dự liệu trước, một dự án vừa đầu tư xong đã phải “đắp chiếu” thì hoặc do năng lực của lãnh đạo doanh nghiệp yếu kém, hoặc do họ cố tình không báo cáo hết những rủi ro có thể mắc phải để dự án nhanh chóng được thông qua.

Cơ quan quản lý Nhà nước cũng khó tránh trách nhiệm, bởi pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp đã có sự phân công, phân cấp rất rõ ràng, rành mạch cả về quyền hạn lẫn trách nhiệm, nghĩa vụ.

Để khắc phục hiệu quả những tồn tại và giải quyết thỏa đáng những vấn đề trên, rất nhiều người cho rằng ngoài việc phải nắm và tuân thủ đúng đắn các quy luật của thị trường đối với doanh nghiệp thì Nhà nước cần để doanh nghiệp phá sản, không nên dùng ngân sách để ứng cứu. Bởi trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước có thể bán, thoái vốn để bảo toàn vốn. Khi trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan, tổ chức được chỉ ra rõ ràng và xử lý nghiêm, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ mới không còn tâm lý trông chờ vào chiếc “phao cứu sinh” xưa nay là ngân sách Nhà nước, hoặc sự can thiệp của Nhà nước, những doanh nghiệp đi sau mới lấy đó làm gương, không đi theo vết xe đổ.

Mặt khác, cần có những biện pháp xử lý, chế tài rất cụ thể, quy định rõ ràng trong các văn bản pháp luật để ràng buộc trách nhiệm, tránh những cái gật đầu dễ dãi của một số bộ, địa phương khi cố gắng tìm kiếm lợi ích trong thành lập doanh nghiệp và đầu tư, phê duyệt dự án. Chỉ như vậy, khi thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, lãnh đạo các cơ quan chủ quản của doanh nghiệp mới phải rất cẩn trọng, kỹ càng, đặt hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án lên hàng đầu nếu chưa tính hết hậu quả đặc biệt nghiêm trọng có thể xảy ra sau này.

Không chỉ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, mà Quốc hội với tư cách là cơ quan giám sát tối cao, đại diện cử tri và nhân dân cả nước, cũng cần sát sao hơn với lĩnh vực này. Doanh nghiệp Nhà nước thực ra hoạt động sản xuất, kinh doanh đều dựa trên nguồn vốn của Nhà nước, suy cho cùng, đó cũng là tiền ngân sách Nhà nước, nên việc sử dụng các đồng vốn ngân sách Nhà nước cần phải được đặt dưới sự giám sát rất chặt chẽ của các cơ quan quyền lực Nhà nước, không thể phó mặc hoàn toàn cho doanh nghiệp, bộ quản lý ngành và UBND cấp tỉnh theo phân cấp.

Tuy nhiên, cũng cần phải nói rõ rằng, việc mở rộng diện liên đới trách nhiệm là để cộng đồng trách nhiệm, để mỗi cơ quan Nhà nước, mỗi doanh nghiệp ý thức hơn về trách nhiệm của mình khi sử dụng vốn của Nhà nước. Có như thế, từng đồng vốn của Nhà nước mới được sử dụng, đầu tư có hiệu quả, thực sự mang lại lợi ích cho đất nước, cho nhân dân.

CHIẾN THẮNG