QĐND - Với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân 5 năm 2011-2015 đạt khoảng 5,9%/năm và quy mô GDP năm 2015 đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người 2.228USD (tính theo sức mua ngang giá là hơn 5.600USD) thì nền kinh tế của Việt Nam có lẽ không còn quá nhỏ và người dân cũng đã bớt nghèo. Tuy nhiên, nỗi lo vẫn còn đó khi Dự thảo Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra rằng: Nền kinh tế vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên; đề án cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, kết quả còn hạn chế.
 |
|
Kinh tế Việt Nam trong năm 2015 tiếp tục tăng trưởng. Ảnh minh họa
|
Lý thuyết phát triển bền vững coi trọng sự công bằng giữa các thế hệ trong sử dụng nguồn lực xã hội, tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không thể tái tạo. Điều đó có nghĩa là thế hệ hiện tại phải có trách nhiệm đối với các thế hệ mai sau. Nợ công tăng nhanh, tài nguyên khai thác bừa bãi, kém hiệu quả,… chính là những gánh nặng cho thế hệ kế tiếp.
Đổi mới mô hình tăng trưởng chính là chuyển sang mô hình phát triển bền vững, cân đối hài hòa, hợp lý các mục tiêu tăng trưởng kinh tế song song với bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Tôi cho rằng, sau 5 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, các mô hình phát triển bền vững phải được xây dựng và áp dụng đồng loạt trong quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế hướng tới nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả, tái cơ cấu các ngành, lĩnh vực, tái cơ cấu doanh nghiệp,... với các nhiệm vụ, mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải cụ thể hóa từ mô hình phát triển bền vững của cả nước theo Chiến lược quốc gia về phát triển bền vững giai đoạn 2011-2020 thành mô hình phát triển bền vững các ngành, lĩnh vực, địa bàn, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp cụ thể, những tế bào của nền kinh tế. Để tất cả chúng ta, ở bất kỳ cương vị, vị trí công tác nào cũng có thể nhận thức được, thấy rõ được yêu cầu cũng như mô hình, mục tiêu, chỉ tiêu phát triển bền vững của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị của mình.
Ví dụ như bộ 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới có thể được coi là mô hình phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Khi đạt được các tiêu chí này, cơ bản kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn sẽ được hoàn chỉnh, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, sản xuất nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và dịch vụ, xã hội nông thôn văn minh, môi trường sinh thái được bảo vệ, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Hay như một khu công nghiệp tập trung được coi là bền vững trong phát triển khi bên cạnh việc thu hút đầu tư, còn phải bảo đảm đáp ứng được các nhu cầu xã hội thiết yếu cho người lao động trong khu công nghiệp như nhà trẻ, nhà văn hóa, sân chơi thể thao, nhà ở cho công nhân, thu gom, xử lý 100% nước thải, rác thải, chất thải rắn, chất thải độc hại,... Những tiêu chí này phải trở thành yêu cầu bắt buộc khi phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế để không tạo gánh nặng về hạ tầng y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội,… cho địa phương. Việc phân định trách nhiệm thực hiện các yêu cầu phát triển bền vững phải được rõ ràng giữa chủ đầu tư với chính quyền địa phương. Có lẽ chúng ta đã vượt qua được giai đoạn thu hút đầu tư “bằng mọi giá” và bước vào giai đoạn thu hút có chọn lọc hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững.
Chúng ta đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc với tỷ lệ hộ nghèo giảm đến cuối năm 2015 còn dưới 4,5%; do đó, về cơ bản, chúng ta đã đạt được mục tiêu giảm nghèo cho cả giai đoạn 2011-2015 và hiện đang bước vào thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã thể hiện sự cam kết qua phát biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hợp quốc tháng 9 vừa qua. Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy chất lượng giảm nghèo chưa thực sự bền vững, tái nghèo gia tăng, vùng lõi nghèo tập trung vào khu vực đồng bào dân tộc thiểu số với tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 47%, tỷ lệ hộ cận nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa miền ngược và miền xuôi,... có xu hướng gia tăng.
Còn như trong lĩnh vực quản lý ngân sách Nhà nước, tổng thu ngân sách 5 năm 2011-2015 tăng gấp khoảng 2 lần so với giai đoạn trước nhưng tổng chi ngân sách lại tăng gấp 2,17 lần dẫn tới nợ công tăng nhanh, từ 54,9% năm 2011 lên khoảng 61,3% GDP năm 2015, thì chưa thể coi là ngân sách bền vững được, nhất là khi thu ngân sách cơ bản chỉ đủ cho chi thường xuyên và dành một phần cho trả nợ, còn chi đầu tư phát triển chủ yếu là từ tiền đi vay. Hơn thế nữa, trong mấy năm gần đây, do không cân đối được nguồn để trả nợ, ngân sách đã phải vay nợ mới để trả nợ cũ, hay còn gọi là vay đảo nợ, năm sau cao hơn năm trước. Đó là tín hiệu rất xấu cho bền vững ngân sách, cho an ninh tài chính quốc gia.
Trong lĩnh vực quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bên cạnh những việc làm tốt như đưa vào thực hiện quy trình vận hành liên hồ chứa tất cả 11 lưu vực các sông lớn, xây dựng bộ cơ sở dữ liệu về đất đai, tài nguyên và môi trường, tăng cường bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, thì vẫn còn không ít trường hợp khai thác tài nguyên kiểu ”thổ phỉ”, bất chấp luật pháp, xuất khẩu tài nguyên thô, chưa qua chế biến hay chỉ chế biến sơ, tình trạng phá rừng,... Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý đạt 92,5% nhưng vẫn còn nhiều vụ việc tồn đọng như ô nhiễm lưu vực một số con sông lớn, ô nhiễm làng nghề, cơ sở sản xuất,... chậm được xử lý, thậm chí phát sinh thêm. Tuy chúng ta đã chủ động phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, triển khai nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng nhưng do nguồn lực còn hạn chế nên cũng chưa làm được là bao so với nhu cầu, nhất là ở những vùng, địa bàn nhạy cảm, nguy cơ hiện hữu như Đồng bằng sông Cửu Long,...
Tôi cho rằng, trong Đại hội XII của Đảng sắp tới, phải đặt yêu cầu cụ thể hóa mô hình phát triển bền vững ở mọi cấp, từ quốc gia đến ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị, nhất là trong quá trình tiếp tục thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013-2020 và Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Thực tế, trong thời gian qua, việc quán triệt và thể chế hóa yêu cầu phát triển bền vững thành luật pháp, cơ chế, chính sách còn chậm, chất lượng thấp, tính khả thi chưa cao một phần do nhận thức về mô hình phát triển bền vững trong nhiều lĩnh vực và trên nhiều địa bàn chưa rõ, phần khác cũng có thể do năng lực phân tích, dự báo và phản ứng chính sách chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Chúng ta đã có nhiều quy định riêng biệt về phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, nhưng có vẻ như chúng chưa được tập hợp, hệ thống hóa, pháp điển hóa với các tiêu chí, yêu cầu cụ thể để làm cơ sở cho việc thực hiện cũng như giám sát, đánh giá. Bởi vậy, trong Đại hội XII sắp tới, đây là những vấn đề cần được nghiên cứu, thảo luận, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện dự thảo các văn kiện trước khi đại hội biểu quyết thông qua.
TS TRẦN VĂN, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội.