QĐND - Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XI tại Ðại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng đã dành hẳn phần IX để nói về "Tăng cường quản lý tài nguyên; bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu".
Có thể nói, Đảng ta đã nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa môi trường và phát triển để hướng tới một nền kinh tế phát triển “nhanh và bền vững”-một cụm từ được sử dụng trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI và được lặp lại nhiều lần trong 5 năm qua, cũng như ngay trong dự thảo lần này. Đất nước ta cũng đang bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh của một thế giới chuyển đổi với xu thế chủ đạo là hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức để chuyển dần từ nền kinh tế dựa vào khai thác sang nền kinh tế dựa vào hiệu quả và bền vững, hướng tới tăng trưởng “xanh”.
Hội nghị Thượng đỉnh toàn cầu về Môi trường và Phát triển diễn ra tại Rio de Janeiro (Bra-xin) tháng 6-2012 (Rio+20) đã ghi nhận rằng, tiến trình phát triển bền vững 20 năm qua (kể từ năm 1992) đã đạt được những thành tựu quan trọng ở các cấp độ, các lĩnh vực, nhưng rất tiếc những thành tựu của phát triển bền vững lại “không bền vững”. Tuy nhiên, phát triển bền vững vẫn được xem là mục tiêu mong đợi về mặt xã hội, cần phải làm thường xuyên và điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn phát triển. Đồng thời, để Trái Đất này bền vững cần ưu tiên thực hiện tốt 6 vấn đề cơ bản: Tăng trưởng “xanh”, bảo toàn vốn tự nhiên, bảo vệ đại dương, bảo vệ cảnh quan, đô thị xanh và năng lượng bền vững. Cả 6 vấn đề như vậy đều liên quan đến sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ hiệu quả môi trường, đều đòi hỏi phải chuyển từ “đối phó thụ động” sang “ứng phó chủ động” đối với thiên tai và tác động của biến đổi khí hậu.
Trong dự thảo lần này, bên cạnh đánh giá tổng quát về những thành tựu đạt được trong lĩnh vực khai thác và quản lý tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu thời gian qua, Đảng ta cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém và những ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội, đến sức khỏe và đời sống nhân dân trong lĩnh vực này. Trên cơ sở tổng kết 30 năm đổi mới và kinh nghiệm thực tế của giai đoạn 2010-2015, dự thảo đặt ra phương hướng thời gian tới là: “Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn”. Trong quá trình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2010-2015, Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện các chiến lược, chính sách, kế hoạch về tăng trưởng xanh, về ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu, về bảo vệ môi trường… Nhưng trong dự thảo này không nhắc đến, dù rất khái quát, thành thử người đọc vẫn cảm thấy thiếu vắng những vấn đề cụ thể hoặc chưa phát hiện thấy triết lý phát triển mới và những luận điểm bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên khác so với các giai đoạn trước.
Dự thảo cũng xác định nhiệm vụ chủ yếu đến năm 2020 phải tạo ra bước chuyển biến cơ bản trong khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững các nguồn tài nguyên của đất nước, kiềm chế mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học nhằm bảo đảm chất lượng môi trường sống, duy trì cân bằng sinh thái, hướng tới nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; về cơ bản, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, giảm phát thải khí nhà kính. Phải chăng cần nhấn mạnh thêm rằng, nước ta sẽ ưu tiên chuyển dần từ nền kinh tế “nâu” sang “xanh”. Các yếu tố “đầu vào” quan trọng bảo đảm cho sự chuyển dịch nền kinh tế theo triết lý phát triển như vậy chính là tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực và tài chính. Còn các sản phẩm “đầu ra” (sau quá trình sản xuất của “hộp đen” kinh tế) là: Sản phẩm hàng hóa có tính cạnh tranh cao, phế thải phải được tận dụng tối đa, chất thải phải được xử lý trước khi thải ra môi trường, tác động xã hội từ các hoạt động kinh tế phải rõ ràng, bao gồm sinh kế người nghèo phải được cải thiện.
Để định hình cấu trúc của một nền kinh tế “xanh” như vậy thì môi trường luôn trở thành “chất xúc tác” không thể thiếu và tài nguyên thiên nhiên luôn là “chất đề kháng” cho một nền kinh tế khỏe mạnh (healthy economy) trong tương lai. Chính vì thế, dự thảo đã xác định: “Tài nguyên là tài sản quốc gia, là nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra. Bảo vệ môi trường tự nhiên vừa là nội dung, vừa là mục tiêu phát triển bền vững”.
Như vậy, an ninh tài nguyên, an ninh môi trường, an ninh sinh thái, an ninh năng lượng và an ninh thực phẩm không còn là những vấn đề môi trường và tài nguyên đơn thuần mà phải được xem là các yếu tố cấu thành của vấn đề an ninh quốc gia. Hoặc ít ra giữa chúng cũng có mối quan hệ đặc biệt với an ninh quốc gia, đòi hỏi phải cân nhắc trong các quyết định đầu tư dài hạn và các quyết sách phát triển mang tầm chiến lược. Mối quan hệ như vậy chưa được làm rõ và sâu sắc trong dự thảo này.
Thế giới gần đây đã cho thấy các bài học “nhãn tiền” về việc tận dụng tài nguyên như một “công cụ” trong việc thực hiện “quyền lực mềm” để giải quyết các quan hệ quốc tế và khu vực, thậm chí đụng đến cả vấn đề chủ quyền quốc gia. Trong khi tình trạng một số loại tài nguyên ở nước ta, thậm chí đóng vai trò chủ đạo, đang bị khai thác quá mức dẫn tới suy thoái, cạn kiệt thì vấn đề trên cần phải được bàn thảo và biểu thị thái độ mạnh mẽ hơn trong dự thảo. Ngoài ra, cần chú trọng đến việc chuyển từ ưu tiên khai thác các tài nguyên ở dạng thô, tươi sống sang chế biến sâu để tăng giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Đặc biệt, cần chú trọng khai thác các dạng tài nguyên tái tạo, các giá trị chức năng và dịch vụ của những hệ thống tài nguyên, bao gồm các hệ sinh thái. Thí dụ, thay vì đánh cá ở một vịnh biển rồi mang đi bán người ta đã chuyển sang nghề cá giải trí (đánh cá giải trí, câu cá giải trí, lặn ngắm cá giải trí và xuất khẩu cá cảnh biển) và thu bộn tiền lời trong khi “cá còn nguyên”. Năm 2013, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020, định hướng 2030, trong đó ghi rõ “khuyến khích phát triển nghề cá giải trí”, nhưng đến nay gợi ý này vẫn được triển khai chậm vì nghề cá giải trí phải dựa trên các giá trị bảo tồn thiên nhiên biển-một vấn đề còn rất yếu ở nước ta. Với cách khai thác “nóng” tài nguyên ở nước ta như hiện nay, không chỉ trên đất liền, mà còn dưới biển cũng sẽ nhanh chóng cạn kiệt (dầu khí, các hệ sinh thái tiêu biểu duy trì nguồn lợi thủy sản…), ít nhất, theo cảnh báo của Viện Tài nguyên Thế giới sẽ biểu hiện rõ từ năm 2030.
Bên cạnh quản lý việc khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên quốc gia chưa hợp lý, thiếu hiệu quả, dự thảo đã chỉ ra ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, có nơi nghiêm trọng; việc khắc phục hậu quả về môi trường do chiến tranh để lại còn chậm. Đa dạng sinh học suy giảm, nguy cơ mất cân bằng sinh thái đang diễn ra trên diện rộng, công tác dự báo và quy hoạch còn nhiều hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu phát triển, thiếu tính tổng thể, liên ngành, liên vùng; chưa rõ trọng tâm, trọng điểm và nguồn lực thực hiện. Việc ứng phó với biến đổi khí hậu còn bị động, lúng túng; thiên tai ngày càng bất thường, gây nhiều thiệt hại về người và tài sản. Đây là một nhận xét đúng với thực tế.
Tuy nhiên, trong cấu trúc các mục của dự thảo chỉ đưa ra 2 tiểu mục: (i) Tình hình, (ii) Phương hướng, nhiệm vụ, có lẽ nên thêm tiểu mục (iii) Giải pháp cơ bản. Được như vậy, người đọc sẽ dễ hiểu và cảm thấy có hành động và niềm tin vào tính khả thi. Bởi vì, trong thực tế không ít văn bản chính sách, chiến lược, chương trình, đề án Đảng và Nhà nước, Chính phủ ban hành với những mục tiêu cụ thể, nhưng khi đánh giá, tổng kết lại rất chung chung nên kết cục chẳng ai có khuyết điểm và không rút ra được bài học đúng. Tình trạng chủ trương đúng, thực hiện “lùng nhùng” vẫn diễn ra phổ biến, cứ thế đội ngũ công chức sẽ dần yếu kém, cơ hội vì không làm hay làm ít vẫn có cách bao biện được.
Nước ta là một trong những quốc gia chịu tác động mạnh mẽ của thiên tai, của biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Tuy nhiên, Việt Nam là một quốc biển và nằm trong khu vực Biển Đông có tranh chấp chủ quyền biển đảo phức tạp và lâu dài. Cho nên, bên cạnh vấn đề an ninh, chủ quyền quốc gia, chúng ta còn phải đối mặt với các vấn đề an ninh phi truyền thống, trong đó có tác động của biến đổi khí hậu (climate change) và biến đổi đại dương (ocean change)-một vấn đề còn ít được nhắc tới ở Việt Nam. Biến đổi đại dương biểu hiện ở các mặt như: Biển đang ấm lên, nước biển đang bị a-xít hóa, nước biển dâng, biển bị ô nhiễm, thiếu ô-xy, suy thoái nguồn lợi thủy sản, xói lở bờ biển và xâm nhập mặn tăng, phì dưỡng và thủy triều đỏ tăng, thay đổi cấu trúc dòng chảy biển… Cho nên, dự thảo nên đưa thêm “biến đổi đại dương” đi cùng với cụm từ “biến đổi khí hậu” để làm nổi bật hình ảnh của một “Việt Nam biển”.
Tác động của biến đổi khí hậu và biến đổi đại dương đang hiện hữu, nhưng năng lực ứng phó của Việt Nam đang rất hạn chế, không có sẵn các nguồn lực đủ mạnh. Cho nên, nếu không kiên định chủ trương “thích ứng” với các giải pháp công trình mềm mà quá nghiêng về giải pháp “cứng” thì sẽ chỉ là hành động “lấy đũa chống trời”, tốn kém tiền của mà hiệu quả thấp, ngắn hạn.
PGS, TS NGUYỄN CHU HỒI (Chủ tịch Hội Thiên nhiên và Môi trường biển)