QĐND - Cách mạng Tháng Tám thành công. Ngày 2-9-1945, Chính phủ lâm thời làm lễ ra mắt quốc dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ngày 20-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về việc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội. Sắc lệnh có đoạn: “Nay lập một Ủy ban dự thảo và đệ trình Quốc hội một bản Hiến pháp cho Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ủy ban gồm có 7 ông sau này: Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Đặng Thai Mai, Vũ Trọng Khánh, Lê Văn Hiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu".

Ngày 23-9-1945, núp dưới bóng quân Đồng minh, thực dân Pháp đã nổ súng ở Sài Gòn. Trước tình hình đó, ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời được cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, ông Nguyễn Hải Thần làm Phó chủ tịch và một số bộ trưởng. Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc đã được quyết định vào ngày 6-1-1946 và thống nhất các lực lượng vũ trang.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp M.Mút-tê ký bản Tạm ước Việt-Pháp, ngày 14-9-1946. Ảnh tư liệu

Ngày 6-1-1946, cử tri đi bỏ phiếu bầu Quốc hội. Kết quả, 333 đại biểu đã trúng cử.

Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất, quyết định bổ sung (không phải bầu) thêm 70 người ở hải ngoại là người của Việt quốc và Việt cách. Như vậy, Quốc hội khóa I có 403 đại biểu. Đó là Quốc hội đầu tiên ở vùng Đông Nam châu Á, cũng là Quốc hội đầu tiên của các nước thuộc địa cũ được độc lập, tự do.

Cũng tại kỳ họp này, Quốc hội bầu ra Ban thường trực gồm 15 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết do ông Nguyễn Văn Tố làm trưởng ban. Đồng thời, Quốc hội cũng bầu Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do ông Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, ông Nguyễn Hải Thần là Phó chủ tịch. Một số bộ trưởng gồm: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Kinh tế Chu Bá Phượng, Bộ trưởng Bộ Tài chính Lê Văn Hiến; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Anh; Bộ trưởng Bộ Xã hội kiêm Y tế, Cứu tế và Lao động Trương Đình Tri; Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đặng Thai Mai; Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe; Bộ trưởng Bộ Giao thông Công chính Trần Đăng Khoa; Bộ trưởng Bộ Canh nông Bồ Xuân Luật; Đoàn Cố vấn tối cao, Cố vấn Vĩnh Thụy; Chủ tịch Kháng chiến ủy viên hội Võ Nguyên Giáp và Phó chủ tịch Kháng chiến ủy viên hội Vũ Hồng Khanh…

Chỉ 4 ngày sau, sáng 6-3-1946, tại Hà Nội có phiên họp quan trọng của các thành viên Chính phủ, Ủy ban Kháng chiến và Ban thường trực Quốc hội nhất trí tán thành ký Hiệp định sơ bộ 6-3, ủy quyền cho phái đoàn Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu ký với đại diện Chính phủ Pháp.

Xin trích nguyên văn một phần biên bản đặc biệt quan trọng này:

 “Hội đồng chính phủ Việt Nam, Tối cao Cố vấn đoàn trưởng, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch và Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến toàn quốc, trong phiên họp ngày 6-3-1946, sau khi nghe Cụ Chủ tịch báo cáo tình hình ngoại giao, sau khi hỏi ý kiến của toàn thể:

1-Nghị quyết tán thành ký hiệp định đình chiến và mở cuộc đàm phán chính thức với Chính phủ Pháp, theo những điều kiện Pháp công nhận nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do và Chính phủ Việt Nam bằng lòng để quân đội Pháp thay thế cho quân đội Trung Hoa.

2-Ủy quyền cho ông Vũ Hồng Khanh, Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến thay mặt cho Hội đồng Chính phủ, cùng Cụ Chủ tịch Chính phủ ký hiệp định trên với đại biểu Pháp.

3-Nghị quyết này do toàn thể Hội đồng, Ủy ban Kháng chiến và Ban thường trực Quốc hội cộng đồng phụ trách trước quốc dân”.

Cuối biên bản là phần ký tên. Tất cả có 17 chức danh được dự họp, nhưng chỉ có 13 người ký tên.

Đầu tiên là chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau đó chức danh Phó chủ tịch để trống, tiếp theo chữ ký của Cố vấn đoàn Đoàn trưởng, Chủ tịch Ban thường trực Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến, Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến…

Theo đó từ ngày 6-7 đến 13-9-1946, phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn đã tham sự cuộc đàm phán chính thức Việt-Pháp ở Phông-ten-nơ-blô (Pháp).

Do thắng lợi của Tổng tuyển cử 6-1-1946, từ ngày 31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là thượng khách của Chính phủ Pháp đã lên đường sang thăm nước Pháp. Hội đàm Việt-Pháp Phông-ten-nơ-blô tuy không thành, nhưng  ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký kết với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước 14-9 để quân dân ta có thêm thời gian chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến trường kỳ, mà Người đã biết trước không thể tránh khỏi, bởi “chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới”.

KHÚC HÀ LINH