QĐND - Ở Tây Nguyên, có một nhà đày (nhà tù) do thực dân Pháp thiết lập từng "nổi tiếng" khắp Đông Dương, đó là Nhà đày Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc). Nó "nổi tiếng" bởi sự tàn ác của thực dân, phong kiến; nơi đây từng được coi là “địa ngục trần gian” trong thời kỳ 1930-1945. Thế nhưng, “nổi tiếng” hơn chính là việc các chiến sĩ cách mạng bị giam cầm tại đây đã biến nhà tù thành "trường học cách mạng" và Nhà đày Buôn Ma Thuột trở thành biểu tượng của ý chí kiên cường, bất khuất...

Nhà đày Buôn Ma Thuột được thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930-1931 để giam cầm tù chính trị các tỉnh Trung Kỳ. Tại đây, suốt từ những năm 1930-1945, hàng nghìn lượt tù chính trị, những người con kiên trung của cách mạng Việt Nam đã bị chính quyền thực dân Pháp và phong kiến tay sai giam giữ, tra tấn dã man. Nhưng cũng chính nơi tù đày tăm tối, khổ ải này, các chiến sĩ cách mạng kiên trung vẫn giữ vững ý chí chiến đấu và giữ vững niềm tin không gì lay chuyển vào lý tưởng cộng sản và sự tất thắng của cách mạng Việt Nam.

Nhà đày Buôn Ma Thuột là nơi đày biệt xứ và giam giữ tù nhân trong những điều kiện khắc nghiệt. Không những bị giam cầm, cùm kẹp, bị đánh đập dã man, tù nhân còn phải đi lao dịch khổ sai làm nhà tù, mở đường xuyên Trường Sơn, xây dựng nhà cửa, cầu cống... Ngoài việc bóc lột sức lao động của tù nhân vào mục đích kinh tế, chúng hành hạ họ cả về vật chất lẫn tinh thần, làm cho tù nhân kiệt lực mà rời rã ý chí đấu tranh, từ bỏ lý tưởng cách mạng. Trong những năm 1930-1945, thực dân Pháp đã biến Nhà đày Buôn Ma Thuột thành “địa ngục trần gian”. Một trong những tên quản ngục khét tiếng tàn ác là Ma-hô-mét Mô-sin với câu nói: “Ngày nào không đánh, đá được lính tráng; không đánh đập, giết chết được phạm nhân thì tối về ăn không ngon cơm” (theo "Vượt ngục Đắc Mil" của Nguyễn Tạo). Để đàn áp các cuộc đấu tranh của tù nhân, hắn dùng mọi thủ đoạn hành hạ, tra tấn từ cùm chân, trói tay, dùng gậy có đinh và vồ đập vào đầu..., đến việc giội nước phân, nước tiểu lên người tù. Độc ác hơn, hắn dùng lưỡi lê đâm vào chân, bụng của những người tù chính trị, rồi liếm máu trên lưỡi lê. Nhưng những người cộng sản đã biến nơi đây thành “trường học cách mạng”, “lò luyện thép”, thành trận tuyến đấu tranh chính trị để gây dựng phong trào cách mạng. Từ năm 1930-1945 có 1.328 chiến sĩ cộng sản bị giam cầm tại Nhà đày Buôn Ma Thuột; trong đó, nhiều đồng chí sau này đã trở thành cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước ta như: Võ Chí Công, Tố Hữu, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Đoàn Khuê...

Học sinh Trường THPT Buôn Đôn (huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc) thăm di tích Nhà đày Buôn Ma Thuột. Ảnh: Tuấn Anh

Ngay từ những ngày đầu bị đưa lên đày ải ở nơi đây, các chiến sĩ cộng sản đã thể hiện tình thương yêu, giúp đỡ, đùm bọc trên tinh thần đồng chí. Họ trao đổi kinh nghiệm đấu tranh, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, quân sự, xác định rõ quan điểm, lập trường và thái độ của người chiến sĩ cách mạng trước thời cuộc, trước thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù. Các cuộc đấu tranh của những người cộng sản tại Nhà đày Buôn Ma Thuột diễn ra liên tục, với các hình thức: Tuyệt thực, đòi yêu sách, chống đánh đập, đòi cải thiện chế độ ăn uống,… Các chiến sĩ cộng sản ở đây đã tổ chức sinh hoạt văn hóa gần như công khai với các hình thức: Đọc thơ, kể chuyện, hát tuồng, diễn kịch… thể hiện khí tiết, tinh thần lạc quan cách mạng của người cộng sản. Tháng 2-1941, nhà thơ Tố Hữu khi bị giam cầm tại đây đã sáng tác bài thơ “Quyết hy sinh”, kính tặng những chiến sĩ cách mạng hy sinh trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 và cổ vũ tinh thần đấu tranh của các anh em trong Nhà đày Buôn Ma Thuột. Bài thơ có đoạn: Các anh chị bước lên đài gươm máy/ Đầu sắp rơi mà môi vẫn tươi cười!/ Chỉ còn đây một giây sống nữa thôi/ Mà mắt đỏ vẫn trông đời bình thản.../ Và xin thề trước bóng dáng thiêng liêng/ Quyết hy sinh phá tan hết gông xiềng/ Cho Tổ quốc muôn năm độc lập.

Cũng trong thời gian này, các đồng chí tù chính trị đã cho ra đời các tờ báo viết tay như: Tù nhân, Xích sắt, Yuăn - Ê-đê (Việt - Ê-đê). Những tờ báo trên đã ghi lại các bài thơ, câu chuyện… do các chiến sĩ tù nhân sáng tác, nhằm tố cáo chế độ lao tù hà khắc và kêu gọi các chiến sĩ giữ vững tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau để đấu tranh cách mạng. Những bài báo ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu (khổ rộng bằng bàn tay) đã trở thành món ăn tinh thần của những người cộng sản ở Nhà đày Buôn Ma Thuột. Nhờ những bài báo chuyền tay mà các chiến sĩ cách mạng đã giác ngộ được nhiều binh lính, cai đội người Ê-đê, trở thành cơ sở cách mạng của Việt Minh.

Những hoạt động tích cực thể hiện sự kiên trung, bất khuất, một lòng vì lý tưởng cộng sản đã tạo tiền đề cho sự ra đời của chi bộ đảng đầu tiên của Đắc Lắc vào cuối năm 1940 với tên gọi “Lực lượng trung kiên”. Tuy không được gọi là chi bộ đảng nhưng lực lượng trên đã đóng vai trò một chi bộ cộng sản với chủ trương: Thông qua đấu tranh với địch để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, tìm cách liên lạc với bên ngoài để vận động quần chúng ở Buôn Ma Thuột, tổ chức vượt ngục để tiếp tục hoạt động gây dựng phong trào cách mạng trong quần chúng.

Việc hình thành chi bộ đảng trong Nhà đày Buôn Ma Thuột là một mốc son lịch sử của Đảng bộ Đắc Lắc nhằm chuẩn bị mọi mặt để lãnh đạo đồng bào các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, đứng lên giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám (24-8-1945). Đội ngũ cán bộ được tôi rèn ở Nhà đày Buôn Ma Thuột cũng góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc.

MINH MẠNH