QĐND - Ngay sau khi thành lập (năm 1946), Trung ương Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) với tên gọi hoạt động bí mật là QQQ đã nhanh chóng khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội, góp phần quan trọng cùng Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi phương châm "dĩ bất biến ứng vạn biến", đạt mục tiêu cao nhất là bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Bài học quý báu từ thuở ban đầu ấy luôn được Quân ủy Trung ương vận dụng sáng tạo qua các thời kỳ cách mạng, lãnh đạo toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, việc bảo vệ chính quyền non trẻ, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trước âm mưu, thủ đoạn trắng trợn của kẻ thù xâm lược và bè lũ chống phá, Đảng ta nhận định: "Đảng chưa đủ sức đương đầu trong cuộc chiến tranh quy mô lớn với Pháp, trong khi quân Tàu Tưởng và bọn tay sai còn ở sát nách, chờ cơ hội chiến tranh Pháp-Việt nổ ra để dễ dàng thực hiện dã tâm lật đổ chính quyền Việt Nam". Trước tình thế đó, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao để tranh thủ khả năng giải quyết quan hệ Việt-Pháp bằng con đường hòa bình, đồng thời tranh thủ thời gian hòa hoãn để xây dựng đất nước, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài trên phạm vi cả nước khi kẻ thù cố tình gây hấn. Với tinh thần đó, việc khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) rất được coi trọng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày với Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước kế hoạch mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu

Nắm chắc yêu cầu, đòi hỏi đó, để tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội, tháng 1-1946, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) - cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng trong quân đội, gồm 7 đồng chí: Võ Nguyên Giáp, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng, Lê Liêm, Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Nguyễn Sơn.

Ngay sau khi thành lập, Trung ương Quân ủy đã tập trung sức lãnh đạo, trực tiếp chỉ đạo hoạt động của LLVT, xây dựng bản chất cách mạng của quân đội, làm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân trong mọi thử thách quyết liệt. Bấy giờ, để giữ bí mật, Đảng được gọi là Hội Cứu quốc, Trung ương Quân ủy được gọi là QQQ, đảng viên là hội viên, đảng vụ là hội vụ.

Trung ương Quân ủy do đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Bí thư, đồng chí Trần Tử Bình làm Phó bí thư (dự bị Bí thư) đã chủ động, tích cực quán triệt, nắm chắc tư tưởng chỉ đạo của Trung ương. Theo đó, một mặt Trung ương Quân ủy tập trung lãnh đạo xây dựng LLVT, mặc khác chủ trương lãnh đạo toàn dân thực hiện hiệu quả các kế sách nhằm tránh đối đầu cùng lúc với nhiều kẻ thù. Bấy giờ, trước âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân diễn ra sôi sục; từ thành phố cho đến thôn quê, các tầng lớp nhân dân đều hăm hở sẵn sàng đánh Pháp. Nhưng với trọng trách trước vận mệnh của Đảng, trước sự sống còn của cách mạng, Đảng ta đã sáng suốt cân nhắc lợi hại của mỗi chủ trương, không thể thuận theo tình cảm bột phát của quần chúng.

Sau quá trình đàm phán kéo dài, ngày 6-3-1946, tại Hà Nội, Chính phủ ta và đại diện chính phủ Pháp đã ký bản Hiệp định sơ bộ với những  điều khoản chính: Nước Pháp công nhận nước Việt Nam là một nước tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính của mình; là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân về việc hợp nhất ba "kỳ"; Chính phủ Việt Nam sẵn sàng đón tiếp 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt Nam thay thế quân Tàu Tưởng theo các hiệp định quốc tế và thời hạn ở lại không quá 5 năm; hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức... Như vậy, xét về bản chất, chúng ta đã đạt được thắng lợi quan trọng ban đầu, một mũi tên trúng nhiều đích: Vừa đuổi được quân Tưởng ra khỏi lãnh thổ nước ta, vừa kéo dài thời gian hòa bình để củng cố vị trí, chấn chỉnh đội ngũ, bồi dưỡng lực lượng sẵn sàng đối phó với những hành động của thực dân Pháp (như Trung ương dự báo). Tranh thủ thời cơ và lợi thế đó, Trung ương Quân ủy cùng các tổ chức Đảng trong quân đội đã lãnh đạo toàn quân, cùng toàn dân đẩy mạnh đấu tranh các mặt chính trị, ngoại giao, quân sự trên cả nước, đồng thời đẩy mạnh xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng chế độ mới.

Đúng như dự báo của Đảng, thực dân Pháp với bản chất hiếu chiến, quyết tâm dùng chiến tranh để xâm lược lại nước ta, cố tình phá hoại cuộc hòa hoãn. Đến ngày 14-9, sau Hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Pa-ri, Pháp) bất thành, cánh cửa hòa bình như bị đóng chặt lại. Lúc này, Trung ương Quân ủy không hề bị động, bất ngờ, mà nhanh chóng triển khai mạnh mẽ, đồng bộ chủ trương đã xác định từ trước, tập trung lãnh đạo LLVT tiếp tục phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược. Đến tháng 10-1946, trước yêu cầu nhiệm vụ mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cử lại các đồng chí Trung ương Quân ủy. Cũng trong năm 1946, Đảng đã điều thêm nhiều cán bộ của Đảng vào quân đội; hệ thống tổ chức Đảng trong quân đội dần được kiện toàn từ Trung ương Quân ủy đến các chi bộ ở đơn vị cơ sở. Hệ thống cơ quan công tác chính trị được xây dựng ở các cấp. Việc phát triển đảng viên mới được các cấp bộ đảng trong toàn quân quan tâm và tiến hành tích cực. Đến cuối năm 1946, trong quân đội đã có gần 8.000 đảng viên (trong tổng số 2 vạn đảng viên của cả nước). Bằng những bước đi phù hợp, trên cơ sở nắm chắc, hiểu rõ "địch-ta", Trung ương Quân ủy đã nhanh chóng kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng, bảo đảm cả về tổ chức, tư tưởng và lực lượng cho việc lãnh đạo toàn quân và LLVT bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, với đầy đủ các yếu tố bảo đảm cho thắng lợi cuối cùng.

Được "sinh ra" vào đúng thời điểm đất nước rơi vào thế "ngàn cân treo sợi tóc", nhưng đó cũng chính là môi trường “thử lửa” để Quân ủy Trung ương được tôi luyện, trưởng thành, được trải nghiệm và đúc rút những bài học quý báu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng và LLVT. Đó là bài học về thực hiện "dĩ bất biến ứng vạn biến", bài học "biết địch biết ta"; về việc lựa chọn cán bộ ưu tú của Đảng tham gia lãnh đạo LLVT; về việc đánh giá đúng tình hình, chủ động kiện toàn hệ thống tổ chức Đảng, phát triển đội ngũ đảng viên... Những bài học đó luôn có giá trị sâu sắc trong tiến trình xây dựng, chiến đấu, phát triển của Quân đội ta và những bước trưởng thành, lớn mạnh của Đảng bộ Quân đội nói chung, Quân ủy Trung ương nói riêng. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong những năm gần đây, nhất là từ giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX đến nay, đã cung cấp nhiều luận cứ, căn cứ quan trọng, giúp chúng ta càng thêm thấm thía về giá trị vĩnh hằng của những bài học quý báu được đúc rút từ những ngày đầu.

NGUYỄN TẤN TUÂN (tổng hợp)