Tham dự và phát biểu tại lễ kỷ niệm có đồng chí Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội. Cùng dự có các đồng chí: Nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An; nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng; Tòng Thị Phóng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó chủ tịch Thường trực Quốc hội; Trần Thanh Mẫn, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Đại tướng Lương Cường, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội; Phùng Quốc Hiển, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ tịch Quốc hội;... Nhân dịp này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã gửi lẵng hoa tới lễ kỷ niệm.
Trình bày diễn văn tại lễ kỷ niệm, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh, cụ Bùi Bằng Đoàn, nguyên Trưởng ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, nhà lãnh đạo mẫn cán của Quốc hội và Chính phủ, người cộng sự gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hương Hà Nội.
Chí sĩ yêu nước Bùi Bằng Đoàn sinh tháng 9-1889 trong một gia đình có truyền thống khoa bảng tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là TP Hà Nội). Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lược, chứng kiến phong trào Cần vương kháng Pháp thất bại; các phong trào đấu tranh yêu nước lần lượt bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố đẫm máu, nhân dân ta lâm vào cảnh nô lệ, lầm than, chí sĩ Bùi Bằng Đoàn đã sớm tiếp thu truyền thống bất khuất của dân tộc. Với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, từ lúc còn là một vị quan của Triều đình nhà Nguyễn đến khi trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ Bùi Bằng Đoàn luôn nêu cao tinh thần vì nước, vì dân, xả thân vì nghĩa lớn. Cụ là một trong những tấm gương tiêu biểu của tầng lớp nhân sĩ, trí thức Việt Nam, đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
 |
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân phát biểu tại lễ kỷ niệm. |
Là người ham học, có tri thức uyên bác, năm 1906, cụ Bùi Bằng Đoàn (khi đó mới 17 tuổi) đã đỗ cử nhân. Sau đó, cụ được nhận vào học và tốt nghiệp thủ khoa Trường Hậu Bổ. Khi làm quan trong triều đình Huế, từ quan Tri huyện ở tỉnh Nam Định, đến quan Án sát ở tỉnh Lạng Sơn, Bắc Ninh; quan Bố chính ở tỉnh Phúc Yên; Tuần phủ tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình;... cụ Bùi Bằng Đoàn nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực. Ngay trên công đường, cụ cho treo Bảng thông báo công khai “không nhận quà biếu” và nghiêm cấm người nhà nhận quà biếu. Điều này thể hiện rõ phẩm chất đạo đức “liêm”, “chính” của một bậc danh nho chân chính. Đối với nhân dân, cụ Bùi Bằng Đoàn có mối quan hệ tình sâu, nghĩa nặng. Bất luận trong hoàn cảnh nào, cụ cũng đứng về phía nhân dân, hết lòng bảo vệ người dân.
Tháng 5-1933, cụ Bùi Bằng Đoàn được bổ nhiệm làm Hình bộ Thượng thư, đồng thời tham gia Viện Cơ mật, đây là cơ quan cao nhất trong hệ thống quyền lực dưới triều vua Bảo Đại. Trên cương vị mới, với sự am hiểu về luật pháp và tư tưởng tiến bộ, cụ Bùi Bằng Đoàn đã có nhiều sáng kiến cải cách tư pháp, trong đó có việc bãi bỏ những quy định không phù hợp ở các tỉnh, đạo ở Trung Kỳ. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ mới. Chán ghét cảnh quan trường trong thời loạn lạc, cụ Bùi Bằng Đoàn đã từ chối tham gia Chính phủ mới và xin từ quan về quê nghỉ ngơi. Tuy nhiên, Chính phủ Nam triều đã nhất quyết không chấp nhận và giao cho cụ giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Trong thời gian đó, Mặt trận Việt Minh đã liên hệ và mời cụ làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị.
 |
Các đại biểu dự lễ kỷ niệm. Ảnh: TTXVN. |
Sau Cách mạng Tháng Tám, vua Bảo Đại thoái vị, cụ Bùi Bằng Đoàn lui về vui sống ở quê nhà. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập trong điều kiện cách mạng gặp muôn vàn khó khăn bởi sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Với tinh thần đoàn kết dân tộc và tư tưởng “tìm người tài đức” phục vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì nhiều lần viết thư tay, cử người về Hà Đông để mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia làm cố vấn cho Chính phủ. Trong bức thư đề ngày 17-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi tài đức ít ỏi và trách nhiệm nặng nề, thấy ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên tôi mời ngài làm cố vấn cho tôi để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ họa cho nước nhà, dân tộc”. Nể phục và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, cụ Bùi Bằng Đoàn lại rời quê, dấn thân theo con đường cách mạng. Với tài năng, đức độ và tri thức uyên bác của mình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đảm nhiệm nhiều công việc và chức vụ quan trọng. Cụ đã trở thành một trong 10 người nằm trong Ban Cố vấn của Chính phủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân đề nghị trong phiên họp Chính phủ ngày 14-11-1945.
Vào tháng 1-1946, cụ Bùi Bằng Đoàn được bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh Hà Đông và vào tháng 11-1946, cụ được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp thứ 2 tín nhiệm bầu giữ chức Trưởng ban Thường trực Quốc hội, thay cụ Nguyễn Văn Tố đi nhận nhiệm vụ mới. Trong thời gian giữ cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội-người đứng đầu cơ quan lập pháp, với sự hiểu biết sâu rộng cả về lý luận và thực tiễn, cụ Bùi Bằng Đoàn đã luôn sát cánh bên cạnh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh để thực thi những nhiệm vụ mà Quốc hội giao phó. Vào thời điểm đó, cụ và Ban Thường trực Quốc hội đã nhận thức rõ nhiệm vụ của Quốc hội là tập trung toàn lực cho cuộc kháng chiến, nên dù không thể tổ chức các kỳ họp thường xuyên, nhưng đại biểu Quốc hội với tư cách là đại diện của nhân dân đã kết nối, động viên quần chúng nhân dân đấu tranh với nhiều hình thức và khả năng sẵn có. Mặt khác, nhằm huy động lực lượng, sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, cụ đã có nhiều cuộc kinh lý đến tận các địa phương để thăm hỏi nhân dân, gửi thư thăm hỏi đồng bào.
Với vai trò là người đứng đầu cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, do cử tri cả nước bầu, cụ Bùi Bằng Đoàn đã tích cực đấu tranh phản bác những luận điệu của thực dân Pháp và bè lũ tay sai về tính hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong những ngày kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, trên cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội, cụ Bùi Bằng Đoàn đã luôn ở bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham dự các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, góp ý kiến với Chính phủ và giám sát các hoạt động của Chính phủ trong mọi công tác kháng chiến. Cụ đã có những đóng góp vào việc cải tổ nhân sự của Chính phủ; thực hiện những chính sách sản xuất tiết kiệm, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách ruộng đất; chỉ đạo các đoàn đại biểu khu vực kiểm tra tình huống, lấy nguyện vọng của nhân dân để góp ý cho Quốc hội và Chính phủ trong lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Cuối năm 1948, đầu năm 1949, cụ Bùi Bằng Đoàn lâm bệnh nặng. Được tin cụ ốm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo đưa cụ vào vùng tự do Thanh Hóa để yên tâm chữa bệnh. Trong thời gian chữa bệnh, tuy xa Trung ương, xa Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng qua thư từ, liên lạc, cụ Bùi Bằng Đoàn vẫn thường xuyên được Người thăm hỏi, động viên và bàn luận những vấn đề quốc sự. Đáp lại, cụ cũng thường xuyên gửi thư góp ý cho Trung ương, cho Chính phủ và luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau khi Hà Nội được giải phóng, cụ Bùi Bằng Đoàn được Trung ương đón về ở tại nhà số 10 phố Trần Hưng Đạo, gần Bệnh viện Quân đội 108 để tiện chữa bệnh.
Ngày 13-4-1955, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn từ trần. Cụ đi xa, nhưng tấm gương yêu nước, thương dân, tận tụy với công việc và sự liêm khiết, chính trực của cụ cùng những cống hiến to lớn mà cụ đã để lại cho Quốc hội, cho Chính phủ, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc mãi mãi được khắc ghi.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân bày tỏ: “Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn là dịp để chúng ta tri ân và tưởng nhớ công lao, sự cống hiến to lớn của cụ đối với nhân dân và cách mạng Việt Nam. Cụ Bùi Bằng Đoàn chính là một tấm gương tiêu biểu của một nhân sĩ yêu nước chân chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tinh thần làm việc tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân; sống khiêm tốn, giản dị, không màng danh lợi, phú quý của cụ là tấm gương sáng để các đại biểu Quốc hội, cùng cán bộ, đảng viên, toàn thể nhân dân ta học tập. Tấm gương của cụ Bùi Bằng Đoàn góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng lý tưởng, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng đất nước”.
Tin, ảnh: NGUYỄN VŨ