 |
Ông Hồ Ngọc Sơn và "nguyên mẫu" của "Tình em" ngày đất nước thống nhất 1975. |
“
Khi chiếc lá xa cành/ Lá không còn màu xanh/ Mà sao em xa anh/ Đời vẫn xanh rời rợi...”. Những giai điệu tha thiết trong ca khúc “Tình em” của nhạc sĩ Huy Du bao nhiêu năm qua vẫn gần gũi, ấm áp trong lòng bao thế hệ. Đây là ca khúc được phổ thơ của Hồ Ngọc Sơn, một bài thơ tình giản dị, lãng mạn được viết từ chiến trường Tây Nguyên ác liệt những ngày tháng chống Mỹ. Tác giả Hồ Ngọc Sơn hiện sống ở Hà Nội.
Tiếp lửa truyền thống xin gửi tới bạn đọc câu chuyện do chính ông viết đã được gửi dự thi “Viết tiếp hành trình tuổi hai mươi-Sống đẹp, sống có ích”:
Cách đây hơn 40 năm, tôi là một chiến sỹ quân giải phóng chiến đấu tại chiến trường Gia Lai-Kon Tum. Bài thơ “Tình em” có mặt trong nhật ký của tôi giữa thời điểm chiến trường miền Nam nóng bỏng, nhất là vào mùa khô khốc liệt 1962-1963. Vì bài thơ có xuất xứ từ chuyện riêng của mình nên tôi chỉ chia sẻ với một vài người bạn cùng đơn vị, không rõ ai đã gửi bài thơ ấy ra miền Bắc. Nó xuất hiện đầu tiên trên tập “Sức trẻ” và được nhạc sỹ Huy Du phổ nhạc vào cuối năm 1962, nhanh chóng trở thành một trong những bài tình ca nổi tiếng thời đánh Mỹ.
Nhiều người thân quen, học sinh, sinh viên khi biết tôi là tác giả của bài thơ “Tình em” thường hỏi tôi về hoàn cảnh ra đời của nó. Quả thật, nó là một kỷ niệm tình yêu, ra đời bắt nguồn từ một cuộc chia xa người yêu quá sớm sau ngày cưới để lên đường ra tiền tuyến. Một buổi chiều bình thường, yên ả như mọi ngày, bỗng tôi được gọi riêng lên gặp cấp trên và được giao nhiệm vụ trở về miền Nam chiến đấu. Tôi sinh ra và lớn lên ở thị xã Quảng Ngãi, một thị xã nhỏ nằm bên bờ sông Trà Khúc thơ mộng, gắn liền với bao kỷ niệm tuổi thơ. Nơi đó, tôi còn một người mẹ nghèo, một cô em út và các chị, không biết trong cảnh chiến tranh giặc giã, sống chết ra sao...
Để bảo đảm bí mật cho chuyến đi xa, theo yêu cầu và hướng dẫn của tổ chức, tôi viết thư nói dối vợ được chọn đi học dài hạn ở Liên Xô. Vợ tôi rất vui sướng và coi đây là một vinh dự cho gia đình.
Nhưng rồi, điều gì đã định, tất sẽ đến
Trước khi lên đường, đơn vị đã bí mật sắp xếp rất chu đáo cho chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi được sống bên nhau khoảng dăm hôm. Tôi không thể giấu Hiên (vợ tôi) được nữa. Bằng sự nhạy cảm của người vợ, Hiên đã đoán biết được chắc chắn tôi sắp về Nam.
Đợt ấy là mùa thu, và đó là mùa thu cuối cùng tôi sống trên đất Bắc và lần thứ hai chúng tôi gặp nhau kể từ sau ngày cưới. Cả hai chúng tôi đều cảm thấy bùi ngùi, se lòng trước một cuộc chia xa không biết bao giờ sẽ gặp lại. Tiễn Hiên trở về, tôi đưa cho Hiên một gói nhỏ trong đó có những kỷ vật cần lưu giữ và một ít quần áo tặng các anh hai của vợ. Hiên ôm mặt khóc. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy Hiên khóc. Tôi quay mặt bước nhanh để giấu đôi mắt mình cũng đang rưng rưng...
Sau hơn hai tháng liên tục vượt qua những thượng nguồn sông suối và bao đỉnh núi cao Trường Sơn, đơn vị tôi được lệnh dừng chân đóng quân ở một vùng núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, thuộc đất Kon Tum. Không thể nào quên những bữa cơm gạo đắng trong những ngày đầu trên chiến trường. Đó là những hạt gạo nuôi quân được đồng bào cất giấu trong những kho ở trong rừng không biết từ năm nào đã mục nát. Lĩnh một cân gạo mang về cho vào nước đãi lên chỉ còn vài lạng chắc hạt. Sợ nhất là lạt muối, đơn vị tôi bị lạt muối nửa tháng liền. Thiếu muối, nhìn cái gì trước mặt cũng cứ vàng ệch ra. Hàng năm, cấp trên chỉ phát cho một phần gạo muối. Với tinh thần “khoanh một vùng để làm nên cơ nghiệp”, chúng tôi vừa phải thường xuyên đánh đuổi toán biệt kích sơn cước kéo đến tập kích, vừa phải tham gia những trận đánh, những chiến dịch “mở mảng” để củng cố, mở rộng căn cứ địa vững chắc cho quân khu, đồng thời phải lăn lộn nương rẫy để có lương thực đủ nuôi đơn vị mình sáu tháng mỗi năm. Thế nhưng, gian khổ, thiếu thốn nhất, vò xé nhất lại là nỗi đau về tình cảm. Có thể nói, thử thách chiến trường lúc này không phải là đạn bom ác liệt mà chính là cuộc đấu tranh quyết liệt để giữ cho được lòng tin. Lòng tin là sức mạnh, mất lòng tin là mất tất cả...
 |
... Và sau 30 năm. |
Thật không ngờ và vui mừng vô hạn, là vào dịp cuối hè đầu thu năm 1962, tình hình miền Nam bừng sáng, chuyển biến rất mau lẹ. Chúng tôi được thông báo công khai hòm thư đơn vị, được tự do gửi thư và liên lạc với gia đình ở miền Bắc.
Một hôm, cùng đơn vị đi gùi đạn trên đường giao liên để chuẩn bị cho một trận chiến đấu lớn, tình cờ tôi gặp một đồng chí thương binh đang chuyển ra Bắc. Sau khi trò chuyện, tôi nhặt một mảnh giấy nhỏ, viết nguệch ngoạc mấy dòng ngắn ngủi:
“Anh vẫn mạnh khoẻ. Nhớ em lắm. Địa chỉ của anh... Mong nhận được thư em. Hôn em rất nhiều lần...”. Vì nhớ quá mà viết liều, chứ thật lòng, tôi không hy vọng thư đến tay người nhận. Vậy mà, người thương binh tốt bụng ấy đã lần theo địa chỉ tìm về Nhà máy đường Sông Lam (thuộc tỉnh Nghệ An-nơi vợ tôi làm việc) nhưng Hiên đã đi học. Anh lại lần ra Trường bổ túc Công nông Trung ương, cuối cùng cũng tìm đến Trường đại học Bách khoa, nơi Hiên đang học chuyển thư đến tận tay. Được thư, vợ tôi sững sờ khóc òa...
Một ngày mùa thu năm 1962, đơn vị tôi được lệnh chuyển từ Kon Tum vào Gia Lai đóng quân. Trên đường hành quân, không hiểu do sốt ruột hay linh tính, tôi tạt ngang vào trạm giao liên. Tôi sửng sốt như trời trồng khi nhìn thấy thư vợ gửi. Nhìn nét chữ thân quen trên phong bì, tôi mừng đến phát khóc. Trong thư, Hiên tâm sự rằng giá mà sớm có với nhau một đứa con, giữ lại cho nhau một di sản quý báu nhất của tình yêu, một kỷ niệm thiêng liêng suốt cả một đời người, thì dù tôi có xa cách bao lâu, có ở phương trời nào em cũng đành lòng. Em không nói gì về sự khó khăn của mình, nhưng tôi hiểu em đang phải chịu đựng và vui vẻ chấp nhận khó khăn gian khổ để làm vui lòng người chiến đấu. Tôi xót xa tưởng tượng em thui thủi, vò võ một mình trong căn phòng trống vắng khi vào những tối thứ bảy giữa thủ đô huyên náo, nhộn nhịp trong khi từng đôi bạn trẻ thủ thỉ sánh bước bên nhau. Em chỉ mong tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ và hứa chung thuỷ đợi chờ. Những lời động viên của Hiên đã tiếp cho tôi sức mạnh.
Đêm đó, dừng chân hành quân bên suối. Nằm trên võng ngắm trăng, tôi không tài nào ngủ được. Trong tôi dấy lên những suy nghĩ về Tổ quốc và tình yêu, về nợ nước tình nhà, sống và chết, gian khổ và vinh quang, hy sinh và chiến thắng, mong chờ và hy vọng, đau thương và hạnh phúc...Tôi trăn trở cố tìm cho mình một lời giải đáp. Những lá vàng rơi trên đường hành quân lại hiện ra trước mắt tôi. Lá đã lìa cành, lá không còn màu xanh. Tôi cũng sực nhớ nhà thơ Xuân Diệu có viết: “Yêu là chết ở trong lòng một ít”. Nhưng tình yêu của những người đang ra trận thì phải như thế nào đây?
Chiến tranh bao giờ cũng là thử thách khắc nghiệt nhất của mỗi quốc gia, dân tộc và số phận mỗi người. Cuộc chiến đấu một mất một còn này không cho ai trong số chúng tôi lùi bước, không có con đường nào khác là sự lạc quan đi tới, giành lại sự sống cho quê hương, đất nước. Tôi nghĩ nhiều đến Hiên và yêu em vô cùng. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm nhận một cách sâu sắc lạ thường về lòng chung thuỷ chờ chồng của người phụ nữ trong chiến tranh cũng vĩ đại, cao quý đâu kém gì sự hy sinh cao cả của những người lính trên chiến trường...
Tôi nhẩm và sửa trong đầu vài chữ để mờ sáng tôi ghi vào nhật ký:
Tình em
Gửi H
Khi chiếc lá lìa cành
Lá không còn màu xanh
Mà sao em xa anh
Đời vẫn xanh rời rợi?
Có gì đâu em ơi
Tình yêu là sự sống?
Tôi xoá bỏ và thay hai chữ “lìa cành” bằng “xa cành” vì chữ “lìa cành” nghe buồn quá, sợ sẽ gieo vào lòng người suy nghĩ về sự mất mát và cái chết. Từ “xa cành” nghe nhẹ hơn, hợp với chúng tôi hơn-một cuộc chia xa tin tưởng sẽ có ngày về.
Thời ấy, một bức thư gửi từ Nam ra Bắc hoặc ngược lại nhanh nhất cũng mất ba đến bốn tháng mới đến tay người nhận. Do vậy, tuần nào, tháng nào chúng tôi cũng gửi thư cho nhau để tránh thất lạc và khỏi đứt đoạn. Sang đầu năm, tôi nhận được thư Hiên. Em hỏi tôi: “Em nghe trên đài họ hát bài “Tình em” và giới thiệu là thơ của Ngọc Sơn từ miền Nam gửi ra. Có phải là thơ của anh không?”. Nhận thư em, tôi hồi âm liền. Bức thư và bài thơ đến với em vào cuối mùa thu năm 1962. Bài thơ trở thành nguồn động viên Hiên vượt qua mỗi gian lao, thử thách, chiến thắng mọi yếu mềm để giữ trọn tình yêu và vững vàng trước mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh...
Tôi đi xa biền biệt tháng ngày, thấm thoát đã 12 năm xa nhau đằng đẵng. Khoảng cuối thu năm 1972, Hiệp định Pa-ri sắp ký kết, cấp trên tạo điều kiện cho tôi ra Bắc thăm gia đình. Em chờ tôi từ tuổi 23, đón tôi trong vòng tay khi em đã tuổi 35. Vợ chồng tôi gặp lại thoáng chốc lại phải xa nhau...
Sau ngày vui lịch sử năm 1975, những người lính từ chiến trường trở về như chúng tôi chưa kịp lấy lại sức, nhưng vẫn luôn hạnh phúc và tự hào chúng tôi đã góp xương máu để đổi lấy hoà bình. Những đồng đội của tôi đã ngã xuống và những người may mắn trở về sau đại thắng mùa Xuân đều có chung ước nguyện: đất nước được hoà bình, gia đình sum họp...Nhưng rồi, một lần nữa tôi lại xa Hiên tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. Lúc này, chúng tôi đã có với nhau đứa con, sinh đúng năm 1975...
Cuối thu năm 1981, tức là tròn 20 năm ròng rã xa nhau, tôi được điều động về công tác tại Cục Tư tưởng-Văn hóa (Tổng cục Chính trị). Từ mùa thu này, tôi mới có cuộc sống gia đình sum họp thực sự. Và cũng từ đây, tôi mới dần có những khái niệm đầy đủ về một tổ ấm...
Giờ thì tóc chúng tôi đã nhuốm màu mây. Vợ chồng tôi cũng đã trên dưới 70 tuổi cả. Bao nhiêu năm em đã sống và chiến thắng bệnh tật. Em vẫn rắn rỏi, bền gan, gương mẫu hết mình trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình. Lúc này, nhìn bước đi chậm chạp, dáng vẻ mệt mỏi, phờ phạc, làn da xanh xao của em mà tôi the thắt lòng. Không thể nói hết được những hy sinh của em. Chúng tôi có những tháng ngày bên nhau xiết bao hạnh phúc. Trong tôi vẫn vẹn nguyên hình ảnh em một thời xuân sắc-cái thời đã khơi gợi cảm hứng để tôi viết nên bài thơ tình nồng cháy. Bây giờ em đã lên chức bà, thế mà tôi vẫn ngỡ như ngày đầu mới gặp. Mỗi khi nghe ai đó ngâm những câu thơ hoặc nghe trên đài bài hát “Tình em”, tôi bồi hồi xúc động nhớ về những ngày thu chia xa... Xin cám ơn những người đã gửi bài thơ của tôi ra miền Bắc. Xin cám ơn nhạc sỹ Huy Du đã chắp cánh cho bài thơ “Tình em” bay xa, lưu lại cho đời một bản tình ca mãi tươi xanh như lá trên cành...
QĐND