QĐND - Là chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực công nghệ sinh học tại Ca-na-na, Tiến sĩ Nguyễn Quốc Bình, Việt kiều Ca-na-đa, từ nhiều năm trước được mời về tham gia xây dựng Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh. Ông rất quan tâm và tìm đọc các bản Dự thảo văn kiện trình Đại hội XII của Đảng sau khi được công bố và có một số ý kiến tham gia đóng góp như sau:
Trong hai bản Dự thảo văn kiện Đại hội XII, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học, công nghệ được nhấn mạnh là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), hội nhập quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2016-2020 có đề cập tới các giải pháp phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ, bao gồm việc khuyến khích các nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia hoạt động khoa học, công nghệ tại Việt Nam.
Trên thực tế, việc thu hút các chuyên gia, trí thức là người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là trong lĩnh vực khoa học, công nghệ về Việt Nam không phải là mới. Việt Nam từ lâu đã thực hiện một số chương trình cụ thể để thúc đẩy mục tiêu này, nhưng phải thừa nhận kết quả thu được còn khiêm tốn, chưa tạo được hiệu quả rõ rệt. Việt Nam chưa có cơ chế, chính sách đủ mạnh để thu hút đội ngũ chuyên gia, trí thức, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài cũng như chuyên gia quốc tế tham gia các hoạt động khoa học, công nghệ trong nước. Hay nói cách khác, chúng ta cần có một chiến lược thu hút “chất xám” rõ ràng, chứ không chỉ là mời gọi và khuyến khích nói chung.
 |
| Ảnh minh họa/ Nguồn: TTXVN. |
Chiến lược đó cần phải bảo đảm rằng, các nhà khoa học về nước làm việc có môi trường thuận lợi nhất có thể để phát huy ý tưởng sáng tạo và áp dụng những kinh nghiệm chuyên môn tiên tiến mà họ học hỏi được ở nước ngoài. Nếu chúng ta đã mạnh dạn trong các lĩnh vực quản lý khác, thì trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, càng cần phải mạnh dạn hơn như giao trọng trách “người thầy” có vai trò quyết định, hướng dẫn chứ không chỉ là “người làm việc” đơn thuần. Tại sao nhiều nước vẫn mời được những nhà khoa học hàng đầu của nước khác về làm trưởng viện nghiên cứu này, phòng thí nghiệm kia của nước họ? Trong khi ở Việt Nam mới chỉ giới hạn trong việc mời được một số nhà khoa học Việt kiều về thôi. Đó là chưa kể tới thực tế Việt Nam chủ yếu mới chỉ mời được những trí thức kiều bào có trình độ tầm trung, có lòng yêu nước trở về. Còn việc mời được những chuyên gia, nhà khoa học kiều bào hàng đầu, tầm cỡ thế giới và cả việc có giữ chân được họ hay không thì lại là một câu chuyện khác.
Thực tế, trong dự thảo văn kiện cũng đã phần nào xác định được những hạn chế này làm ảnh hưởng tới mục tiêu phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ của đất nước, nhưng cần phải nêu cụ thể hơn các giải pháp để tạo cơ sở cho việc thực thi những chính sách, chương trình liên quan. Khoa học, công nghệ được xác định là một nhân tố chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, nếu đã xác định rõ phát triển kinh tế-xã hội là mục tiêu chủ đạo thì mọi việc đều phải nhằm phục vụ mục tiêu lớn này.
Nên chăng cần nêu cụ thể việc phải có chiến lược thu hút và giữ chân các nhà khoa học hàng đầu? Việc này sẽ tạo cơ sở để đề ra những chính sách cụ thể mang tính cạnh tranh nhằm thu hút nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Cần nhìn vào thực tế là hiện nay, thay vì Việt Nam, một số chuyên gia hàng đầu đã lựa chọn những quốc gia khác ở khu vực có chính sách thu hút người tài cạnh tranh hơn để tới làm việc mà Xin-ga-po là một ví dụ.
Chiến lược đó cũng phải bảo đảm làm sao các chính sách liên quan được thực thi thông suốt ở mọi cấp, từ cấp chỉ đạo đến cấp thực thi trực tiếp. Lĩnh vực này Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm từ các mô hình thành công như Hàn Quốc, hay Xin-ga-po, những nước có chính sách thu hút “chất xám” hiệu quả.
Cũng liên quan tới lĩnh vực khoa học, công nghệ, Dự thảo văn kiện có nêu mục tiêu xây dựng một số viện nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại, phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo và vườn ươm công nghệ. Đặt ra phương hướng này là hợp lý trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ. Sẽ thuận lợi hơn cho khâu thực thi nếu ở nội dung này, Dự thảo văn kiện nêu chi tiết hơn để tránh tình trạng dàn trải không cần thiết, dẫn tới hiệu quả hạn chế. Chẳng hạn có thể chỉ rõ những lĩnh vực trọng điểm cụ thể nào cần xây dựng trung tâm nghiên cứu hiện đại, tầm cỡ, ví dụ công nghệ sinh học hay vi tính...
Vì vậy, phần nội dung về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 5 năm nên có những điều chỉnh mang tính định lượng cụ thể hơn ở lĩnh vực khoa học, công nghệ. Mục tiêu 5 năm không phải là dài. Trong điều kiện ổn định như hiện nay, chúng ta có thể kiểm soát được hầu hết các yếu tố nên cần phải có mục tiêu cụ thể hơn.
Hơn nữa, việc xây dựng, phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ nên hướng vào giải quyết những vấn đề quan trọng, cấp thiết đang đặt ra từ quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước.
Về cơ chế quản lý trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, Dự thảo văn kiện có đề cập việc đổi mới cơ chế quản lý, nhất là cơ chế tự chủ về tài chính, tổ chức và hoạt động của tổ chức khoa học, công nghệ công lập. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ thì cần thiết phải có quy định cụ thể về tự chủ tài chính thông qua các đề tài nghiên cứu khoa học và ứng dụng nghiên cứu khoa học. Nếu chỉ quy định tự chủ chung chung là rất dễ dẫn tới tình trạng “hiểu sai” như việc áp dụng Nghị định 115 về quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập hiện nay. Có một thực tế hiện nay là nhiều viện nghiên cứu chỉ làm những gì đem lại lợi ích cho viện, bảo đảm có đủ lương và thu nhập cho cán bộ, nhân viên của viện đó, đi ngược lại mục tiêu là đem lại lợi ích cho xã hội.
Vì vậy, quy định về cơ chế tự chủ tài chính trong lĩnh vực khoa học, công nghệ cần bảo đảm làm sao tiền được phân bổ cho các đề tài nghiên cứu, khuyến khích các viện nghiên cứu làm ra sản phẩm chứ không phải chỉ để bảo đảm việc trả lương.
Việc này có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển khác. Chẳng hạn ở Ca-na-đa, Hội đồng Khoa học quốc gia sẽ quyết định số tiền cho từng đề tài theo mức độ mà họ thấy là đề tài đó cần và khả năng tài chính cho phép. Chủ nhiệm đề tài có toàn quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm trong chi, thu theo luật định. Ở Ca-na-đa không có chuyện người nghiên cứu phải mua sắm đúng như kế hoạch dự kiến nghiên cứu đã đề ra để được thanh toán tiền, nên không có chuyện “chi khống”. Làm nghiên cứu không thể quy định như vậy được. Làm nghiên cứu đâu biết được ngày mai kết quả sẽ như thế nào, ứng dụng cái gì và cần mua thêm vật liệu nào... Kết quả nghiên cứu thay đổi theo hướng khác sẽ khiến các dự tính trước đó phải thay đổi theo.
Ở Ca-na-đa cũng như nhiều nước có trình độ khoa học, công nghệ phát triển khác, người ta sẽ đánh giá kết quả của đề tài nghiên cứu lần trước để làm tiền đề cho việc cấp tiền cho lần nghiên cứu sau. Chẳng hạn, cơ quan chức năng sẽ hỏi trong các đề tài đã được cấp tiền, hãy kể ra những bài báo về nghiên cứu đó được đăng tải trên các tạp chí khoa học hay những ứng dụng thực tiễn của các đề tài ấy. Như vậy sẽ thấy ngay hiệu quả của nghiên cứu khoa học đó. Cơ chế quản lý kiểu này sẽ bảo đảm tốt hơn nhiều tính hiệu quả và ứng dụng của các đề tài nghiên cứu khoa học.
Tiến sĩ NGUYỄN QUỐC BÌNH
Chuyên gia cao cấp, nguyên Phó giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học TP Hồ Chí Minh