 |
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tổ chức kỷ niệm trọng thể 60 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946/19-12-2006); kỷ niệm 17 năm Ngày Hội quốc phòng toàn dân, 62 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam trong bối cảnh đất nước tràn đầy niềm phấn khởi, tự hào bởi những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới; và bởi những sự kiện trọng đại, mang tính bước ngoặt đối với đất nước vừa diễn ra, đó là: Đại hội X của Đảng thành công, Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 14 được tổ chức thành công tại Việt Nam... Tất cả những sự kiện đặc biệt đó càng làm cho lễ kỷ niệm Ngày Toàn quốc kháng chiến trọn vẹn ý nghĩa. Và mỗi người trong chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng, niềm vui, những thành tựu có được hôm nay là kết quả của cả một quá trình nỗ lực đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc suốt mấy chục năm qua. Ngày Toàn quốc kháng chiến mở đầu cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, anh dũng của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là một trong những mốc son chói lọi trong trang sử đấu tranh giữ nước hào hùng của dân tộc. Vì thế, kỷ niệm ngày lịch sử này có một ý nghĩa đặc biệt, nhằm ôn lại truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất, kiên cường, xây dựng nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết chiến đấu vì tự do, độc lập và hòa bình của quân và dân ta; ôn lại những kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng phong phú, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu để từ đó tiếp tục phát huy, đạt những thành tựu to lớn trong thời kỳ mới.
Trước dã tâm và hành động xâm lược của kẻ thù, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, tình thế đất nước lúc đó như ngàn cân treo sợi tóc, hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta - “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc”- đã nhất tề đứng lên chống quân xâm lược với tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, truyền thống yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc, tinh thần kiên cường, bất khuất, cố kết cộng đồng của dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử một lần nữa được khơi dậy, phát triển lên chất mới, phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Cũng từ sức mạnh vô địch đó, quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách trong cuộc đương đầu với kẻ thù có sức mạnh quân sự hơn ta gấp bội để giành thắng lợi từng bước, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vĩ đại do nhiều nhân tố hợp thành, trong đó nhân tố quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng chiến đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc, của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Dưới ngọn cờ đại nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công” đã tập hợp được tuyệt đại bộ phận người Việt Nam yêu nước, lập nên khối đoàn kết thống nhất toàn dân tộc, với nền tảng liên minh công nông, tạo ra sức mạnh vô địch của toàn dân kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công. Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân ta sáng tạo, phát triển phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ thuật quân sự chiến tranh chính nghĩa, chiến tranh toàn dân, toàn diện với sự tham gia tự giác, tích cực của toàn dân, có lực lượng vũ trang (LLVT) gồm ba thứ quân và Công an nhân dân làm nòng cốt. Thực hiện đấu tranh toàn diện với địch, gồm cả đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, đấu tranh tư tưởng - văn hóa, trong đó đấu tranh vũ trang giữ vai trò trực tiếp quyết định với sự kết hợp chặt chẽ chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, kết hợp ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, theo tư tưởng chiến lược tiến công. Về bản chất, đó là cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh chính nghĩa mang tính nhân văn cao cả, chống ách áp bức, bóc lột, thống trị và xâm lược của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, giành và giữ nền hòa bình, độc lập dân tộc. Tính cách mạng, tính nhân văn của cuộc kháng chiến được thể hiện nổi bật ở đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, vừa kháng chiến vừa kiến quốc; thể hiện ở nghệ thuật quân sự đặc sắc, với tư tưởng xuyên suốt là tiến công. Đánh địch bằng cả mưu, kế, thế, trận trong điều kiện nhỏ thắng lớn, yếu chống mạnh, ít địch nhiều; thể hiện ở phương thức tiến hành chiến tranh, đó là kết hợp chặt chẽ, linh hoạt chiến tranh chính quy của bộ đội chủ lực có trọng điểm với chiến tranh du kích rộng rãi ở các quy mô: Đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn đan xen thích hợp, với các hình thức tác chiến phòng ngự, phản công và tiến công, lấy tiến công là chủ yếu.
Để cuộc kháng chiến toàn dân ngày càng phát triển đến trình độ cao, trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối kháng chiến, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng xây dựng lực lượng nòng cốt trong đấu tranh vũ trang là LLVT ba thứ quân, bao gồm: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Từ lực lượng chính trị sâu rộng của quần chúng, để tổ chức xây dựng LLVT và từ LLVT đông đảo để xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, mang bản chất giai cấp công nhân, trung thành tuyệt đối với Đảng và nhân dân. Trong suốt cuộc kháng chiến, Quân đội nhân dân vừa chiến đấu, vừa xây dựng, từng bước trưởng thành, lớn mạnh và nhờ đó chúng ta có điều kiện để mở những chiến dịch lớn với các loại hình: Phòng ngự, phản công, tiến công.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến vĩ đại còn bắt nguồn từ quan điểm, đường lối độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính; với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời với tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến và đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã xây dựng nên khối đoàn kết liên minh giữa nhân dân ba nước Việt Nam –Lào – Cam-pu-chia anh em trên bán đảo Đông Dương; làm nền tảng cho nhân dân ta thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế của mình và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu của Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, của Đảng Cộng sản và nhân dân tiến bộ Pháp, của các dân tộc bị áp bức, của lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới. Đó còn là thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, của các dân tộc thuộc địa chống ách nô dịch, thống trị, xâm lược của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới đất nước trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thể hiện trên cả hai mặt: Thực tiễn và nhận thức, lý luận. Thành tựu bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và CNXH; đất nước ta có sự thay đổi cơ bản, tương đối toàn diện, đời sống của nhân dân được cải thiện và nâng cao; kinh tế ra khỏi khủng hoảng, phát triển khá nhanh cả về tốc độ và chất lượng tăng trưởng; sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường; chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững; văn hóa phát triển, đậm đà bản sắc dân tộc; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao, hợp tác, hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới. Điều quan trọng nữa là, 20 năm đổi mới còn đem lại cho chúng ta ý nghĩa về mặt phương pháp để xây dựng CNXH; nhận thức rõ và sâu hơn về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở nước ta, về cách thức tổ chức thực tiễn để xây dựng CNXH. Tất cả những thành tựu đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của quốc gia, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Tình hình thế giới, khu vực hiện nay diễn biến phức tạp. Nước ta đang đứng trước vận hội, thời cơ lớn để tăng cường hội nhập, hợp tác, phát triển, nhất là khi chúng ta đã trở thành thành viên WTO và sau thành công của Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 14 vừa được tổ chức tại Việt Nam; nhưng thách thức, khó khăn đặt ra cũng không nhỏ, trong đó có những khó khăn, thách thức mới cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới rất nặng nề, yêu cầu cao. Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, trong đó LLVT nhân dân đóng vai trò nòng cốt. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết Đại hội X, nắm vững quan điểm bảo vệ Tổ quốc, tập trung “xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện”(1), ngày càng hiện đại. Nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và an ninh nhân dân (ANND) tuy có nội hàm riêng, nhưng thống nhất ở mục tiêu là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và CNXH, thống nhất ở tính toàn dân, toàn diện. Do đó, nó phải gắn kết chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình xây dựng. Biểu hiện tập trung của sự gắn kết giữa nền QPTD và nền ANND là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng, thế trận QPTD với lực lượng, thế trận ANND.
Nền QPTD mà chúng ta đang xây dựng được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do toàn dân thực hiện, trong đó LLVT nhân dân làm nòng cốt. Nó bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học-công nghệ… nhằm xây dựng tiềm lực quốc phòng, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày càng lớn, trong đó tiềm lực chính trị-tinh thần là cơ sở, tiềm lực quân sự là đặc trưng, tiềm lực kinh tế là nền tảng. Trong quá trình xây dựng nền QPTD phải thấu suốt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng: Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế; kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại; kết hợp thế trận QPTD với thế trận ANND mà nền tảng là khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Sự kết hợp đó phải được thực hiện và thể hiện ở mọi phạm vi, cấp độ, trong từng ngành, từng lĩnh vực, ở từng địa phương, trên địa bàn chiến lược và cả nước. Chỉ có như vậy, nền QPTD mới thực sự vững mạnh, đủ khả năng phòng, chống hiệu quả các hoạt động phá hoại độc lập dân tộc và CNXH, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh bại mọi loại hình chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc và CNXH.
Cần thấy rằng, chúng ta đang xây dựng nền QPTD trong điều kiện đất nước hòa bình xây dựng, hội nhập quốc tế sâu rộng, vừa hợp tác vừa đấu tranh, có những thuận lợi rất cơ bản để phát triển đất nước, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng; nhưng đồng thời chúng ta cũng đang phải đối phó với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ rất nguy hiểm, thâm độc của các thế lực thù địch nên sẽ nảy sinh những khó khăn, phức tạp mới. Vì thế, trong quá trình hội nhập, hợp tác chúng ta phải hết sức tỉnh táo, linh hoạt, thấy rõ tính chất đan xen giữa đối tượng và đối tác, từ đó có phương pháp xử lý phù hợp, nhằm đạt được mục tiêu phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã và đang tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng dồi dào. Đó là tiền đề cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là bảo đảm cho việc thực hiện yêu cầu vững chắc, ngày càng hiện đại của nền QPTD. Nhưng, điều quan trọng là, quốc phòng và an ninh phải tận dụng được những thành tựu đó, hay nói đúng hơn phải kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế, bảo đảm mỗi bước phát triển kinh tế phải là một bước tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh và ngược lại, quốc phòng-an ninh được củng cố vững chắc lại tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế phải từ trong chiến lược, kế hoạch và quy hoạch đầu tư phát triển của mỗi lĩnh vực, trên phạm vi toàn quốc, đối với từng địa phương đến từng ngành và mỗi doanh nghiệp, công ty… Hướng kết hợp là tạo ra thế bố trí chiến lược thống nhất cả quốc phòng, an ninh và kinh tế trên phạm vi cả nước, từng địa bàn chiến lược, mỗi địa phương.
Để xây dựng nền QPTD vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới phải chăm lo giáo dục quốc phòng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân. Trong đó, chú trọng giáo dục, tuyên truyền về đường lối, quan điểm quốc phòng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, về âm mưu, thủ đoạn chống phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; thống nhất nhận thức về đối tượng, đối tác… Trên cơ sở đó, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân nêu cao cảnh giác, phát huy trách nhiệm, chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động xây dựng và đấu tranh quốc phòng - an ninh ở địa phương, cơ sở.
LLVT nhân dân, trước hết là Quân đội nhân dân với tư cách là lực lượng nòng cốt, phải đề cao trách nhiệm, nỗ lực tham gia xây dựng nền QPTD. Các đơn vị bộ đội chủ lực đứng chân trên các địa bàn và cơ quan quân sự địa phương các cấp phải thực sự là lực lượng nòng cốt trong các hoạt động quân sự, quốc phòng; chủ động phối hợp với địa phương và các ban, ngành, đoàn thể, tích cực tham gia xây dựng thế trận QPTD, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), xây dựng cơ sở chính trị, thực hiện công tác vận động quần chúng, công tác xóa đói giảm nghèo, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai… ở địa phương, cơ sở. Quân đội nhân dân là chủ thể, đồng thời cũng lại là khách thể của nền QPTD. Để Quân đội nhân dân phát huy hiệu quả vai trò chủ thể - nòng cốt của nền QPTD, thì ngay trong quá trình xây dựng nền QPTD, phải coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh. Trước yêu cầu ngày càng cao, phải tập trung xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có trình độ SSCĐ và chiến đấu cao, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, thực sự xứng đáng là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là một lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới.
Kỷ niệm những ngày lịch sử hào hùng trong tháng 12 năm 2006 này, đối với LLVT nhân dân, Quân đội nhân dân, không gì ý nghĩa thiết thực, quan trọng hơn là tiếp tục phát huy khí phách, truyền thống anh dũng, bất khuất và những kinh nghiệm quý báu trong kháng chiến chống Pháp nói riêng, sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung vào công cuộc xây dựng nền QPTD bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. Đó là sự tôn vinh lịch sử, trước hết là các anh hùng, liệt sĩ, đồng thời cũng là trách nhiệm của chúng ta trước hiện tại và tương lai của dân tộc, của đất nước.
(1)Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đại hội.
Thượng tướng PHÙNG QUANG THANH
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư ĐUQS
Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng