QĐND Online – Vấn đề phát triển nóng thủy điện (TĐ), an toàn TĐ trong thời gian qua được xã hội đặc biệt quan tâm. Báo cáo quy hoạch tổng thể về thủy điện của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra quy hoạch tổng thể về thủy điện của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KHCN&MT) của Quốc hội được trình bày trước Quốc hội ngày 30-10 cho thấy còn nhiều bất cập, hạn chế trong thực hiện quy hoạch TĐ...

Tại Việt Nam, thủy điện đóng vai trò rất quan trọng đối với bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH). Năm 2012, TĐ đã đóng góp cho hệ thống điện hơn 48% công suất phát điện và gần 44% điện lượng. TĐ còn tham gia chống lũ, chống hạn, cấp nước cho sinh hoạt, sản xuất (các hồ thủy điện chiếm khoảng 86% tổng dung tích các hồ chứa trong cả nước); đóng góp đáng kể cho ngân sách nhà nước. Ngoài ra, TĐ còn góp phần tăng tỷ trọng sản xuất công nghiệp ở nhiều địa phương, tạo nhiều việc làm và điều kiện thuận lợi để phát triển hạ tầng khu vực có dự án. Nhìn chung, đến nay, trên 90% tiềm năng kinh tế-kỹ thuật thủy điện đã được khai thác và cơ cấu nguồn thủy điện có xu hướng giảm dần.

Đập thủy điện Sông Tranh 2 (Quảng Nam). Ảnh:http://www.tienphong.vn

Trong những năm gần đây, bên cạnh những đóng góp tích cực, quá trình lập và thực hiện quy hoạch TĐ đã nảy sinh một số hạn chế, bất cập. Trước sức ép thu hút đầu tư đáp ứng yêu cầu về năng lượng cho phát triển tương đối nóng trong thời gian vừa qua, chất lượng quy hoạch TĐ, đặc biệt là TĐ nhỏ còn hạn chế; không ít dự án bị loại bỏ, thiếu khả thi, phải điều chỉnh sơ đồ khai thác và quy mô trong quá trình đầu tư; số lượng dự án TĐ nhỏ là khá lớn nhưng đóng góp không nhiều về công suất phát điện. Khoảng 34% tổng số dự án TĐ vừa và nhỏ phải loại bỏ khỏi quy hoạch. Nếu tính thêm số các dự án tạm dừng, tiếp tục đánh giá thêm tác động môi trường, KT-XH và hiệu quả đầu tư thì quy hoạch TĐ nhỏ sẽ bị điều chỉnh khá nhiều.

Mặt khác, thực tế cho thấy, năng lực chuyên môn của một số cơ quan, đơn vị tư vấn, cơ quan quản lý nhà nước ở nhiều địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. Việc kiểm tra, giám sát theo phân cấp của các cơ quan chức năng chưa thường xuyên, kịp thời, đặc biệt là trong giai đoạn quyết định đầu tư, lập, thẩm định dự án. Trách nhiệm, sự phối hợp các chủ thể trong quá trình xây dựng, thực hiện quy hoạch TĐ chưa quy định rõ ràng.

Dựa trên các tiêu chí xem xét, đánh giá, kết quả rà soát quy hoạch, Chính phủ đã loại bỏ 424 dự án; không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm năng; tạm dừng có thời hạn 136 dự án; tiếp tục rà soát, đánh giá 158 dự án. Như vậy, cả nước hiện còn lại 815 dự án, công trình TĐ, đang vận hành 268 dự án, đang thi công xây dựng và dự kiến khai thác từ nay đến năm 2017 là 205 dự án. 

Về công tác quản lý chất lượng, an toàn công trình thủy điện, đối với các công trình TĐ lớn, khoảng 90% số đập đã được kiểm định, 70% số đập đã được cắm mốc giới, 60% số đập đã có phương án bảo vệ, 80% công trình TĐ đã có phương án PCLB. Hiện nay các công việc này đang được tiếp tục triển khai. Tuy nhiên, có giai đoạn việc quản lý chất lượng công trình xây dựng hầu như được giao hoàn toàn cho chủ đầu tư thực hiện và tự chịu trách nhiệm, thiếu sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Tại một số dự án, công trình TĐ, chất lượng khâu khảo sát, thiết kế, thi công, giám sát có nhiều hạn chế, gây không ít hệ lụy tiêu cực. Trong khi đó, trách nhiệm, xử lý sai phạm của chủ đầu tư, các chủ thể khác có liên quan khi công trình có chất lượng kém hoặc để xảy ra sự cố chưa được quy định cụ thể. Công tác quản lý an toàn tại các công trình TĐ nhỏ chưa thực sự tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. Đối với các công trình TĐ nhỏ, gần 30% số đập chưa được kiểm định; khoảng 6% số chủ đầu tư hoàn thành cắm mốc chỉ giới; khoảng 66% đập chưa có phương án bảo vệ được phê duyệt; gần 55% số chủ đập chưa có phương án PCLB. Hiệu quả làm việc của hệ thống quan trắc tại một số công trình TĐ là rất thấp. Việc xây dựng phương án PCLB cho vùng hạ du trong tình huống xả lũ khẩn cấp, vỡ đập... gặp nhiều khó khăn, ít được quan tâm.

Trong thời gian qua, một số sự cố dự án, công trình TĐ vừa và nhỏ khu vực miền Trung, Tây Nguyên đã xảy ra, gây thiệt hại về người và tài sản.

Tình hình trên cho thấy nhiệm vụ bảo đảm yêu cầu chất lượng, an toàn đối với công trình TĐ, đặc biệt là TĐ vừa và nhỏ phải được đặt lên hàng đầu. Trong không ít trường hợp, an toàn đập, hồ chứa công trình TĐ còn gắn với an ninh quốc gia. Ủy ban KHCN&MT thống nhất một số giải pháp của Chính phủ, đồng thời đề nghị Chính phủ chỉ đạo tiếp tục rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới đầu tư xây dựng, vận hành đập và hồ chứa TĐ, cụ thể là các quy định về kiểm định, bảo đảm an toàn, tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra, cần tiếp tục đầu tư nguồn lực cho xây dựng, vận hành hệ thống quan trắc, giám sát, điều tra, khảo sát điều kiện tự nhiên; nghiên cứu, xây dựng các kịch bản phòng chống lũ lụt vùng hạ du, ứng phó sự cố xả lũ khẩn cấp, tình huống vỡ đập.

Về trồng rừng thay thế và thực hiện chính sách dịch vụ môi trường rừng, nhìn chung, UBND các tỉnh, thành phố có dự án TĐ và các chủ đầu tư dự án TĐ đều đã quan tâm triển khai thực hiện quy định về trồng rừng thay thế. Tuy nhiên, công việc này gặp nhiều khó khăn, kết quả rất hạn chế. Số liệu về diện tích đất rừng chuyển mục đích cho công trình TĐ chưa được thống kê rõ ràng. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2012, cả nước có 160 dự án thuộc 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang xây dựng TĐ với diện tích 19.792 ha. Cho đến nay, diện tích rừng trồng thay thế được 735 ha, đạt 3,7% tổng diện tích theo yêu cầu.

XUÂN DŨNG