QĐND - Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của quá trình tư duy lý luận và thực tiễn đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Sự sáng tạo đó đã góp phần to lớn vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời kỳ mới. Từ hoạt động thực tiễn, một trong những cán bộ lãnh đạo có công xây dựng nền kinh tế thị trường, đó là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Ông từng có thời gian lãnh đạo lâu năm ở Nam Bộ, có điều kiện nắm bắt nền kinh tế của miền Nam trước giải phóng và từng là Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh.
 |
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (thứ hai từ phải sang) thăm Xí nghiệp đông lạnh xuất khẩu 1, TP Hồ Chí Minh, tháng 6-1988. Ảnh tư liệu |
Sau năm 1975, TP Hồ Chí Minh ngổn ngang về nhiều mặt. Cùng với hơn 4 triệu nhân dân lao động còn các thành phần của chế độ cũ, nhiều tàn dư, các tệ nạn của xã hội cũ vẫn tồn tại…Về kinh tế, TP Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn, có nền sản xuất hàng hóa khá phát triển, các ngành nghề tiểu thủ công rất phong phú, có kết cấu hạ tầng tương đối khá phục vụ cho phát triển công nghiệp, xuất nhập khẩu và dịch vụ, nhưng đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu tri thức về quản lý, điều hành nền kinh tế đó.
Trên cương vị Bí thư Thành ủy (1975), việc đầu tiên, đồng chí Nguyễn Văn Linh thi hành chính sách "hòa hợp dân tộc", làm cho mọi thành phần đều bớt mặc cảm, thực hiện đoàn kết xây dựng Thành phố (TP). Sau đó, đồng chí chú trọng việc ổn định tình hình kinh tế-xã hội, dành nhiều thời gian thâm nhập các cơ sở sản xuất công, nông nghiệp và nhận thấy cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không phù hợp cho sự phát triển của một nền kinh tế hàng hóa, dịch vụ của TP. Tình hình kinh tế-xã hội của TP đang bước đầu được ổn định thì tháng 4-1977 đồng chí nhận công tác mới.
Là một trong những lãnh đạo cao cấp của Đảng có thời gian hoạt động ở Nam Bộ khá dài, nên đồng chí Nguyễn Văn Linh hiểu và nắm bắt rõ tình hình kinh tế-xã hội ở Nam Bộ nói chung và TP Hồ Chí Minh nói riêng. Với tư duy nhạy bén, thực tiễn phong phú và luôn bám sát cơ sở, nắm bắt được yêu cầu thực tế, khi ở cương vị mới là Trưởng ban Cải tạo xã hội chủ nghĩa, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã hình thành tư duy kinh tế rất mới so với thời kỳ bấy giờ. Đồng chí quan niệm rằng: Cải tạo là để sản xuất phát triển, thúc đẩy nền sản xuất tiến lên, nếu cải tạo mà làm cho sản xuất đình trệ, người lao động mất việc làm, đời sống nhân dân ngày càng khó khăn... thì Trung ương cần phải xem xét lại. Việc cải tạo kinh tế xã hội chủ nghĩa không nên nóng vội mà phải tiến hành theo đúng quy luật vốn có của nền kinh tế ấy. Đối với kinh tế của giới tư sản mại bản, cơ sở sản xuất, đồn điền cao su, chè... của giới tướng tá ngụy phải tịch thu, quốc hữu hóa; cơ sở sản xuất nhỏ và vừa của các tiểu thương, tiểu chủ, tư sản dân tộc... đã có những đóng góp nhất định vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, hiện còn đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, thì cần có chủ trương duy trì sản xuất, góp phần ổn định cuộc sống của TP, làm cho bộ mặt kinh tế của TP ngày càng phồn vinh. Quan điểm đó chưa được Trung ương chấp nhận và chuyển đồng chí sang công tác khác vào cuối năm 1977.
Với tư duy cứng nhắc của thời kỳ trước đổi mới, trong cải tạo kinh tế, chúng ta đã làm ồ ạt, đồng loạt bằng biện pháp hành chính, như đưa các hộ tiểu thương lên vùng kinh tế mới, phá vỡ kinh tế hàng hóa, dịch vụ đang vận hành bình thường… làm cho sản xuất đình trệ, không chỉ cuộc sống của những người thuộc diện cải tạo trở nên khó khăn mà một bộ phận không nhỏ những người lao động thành thị cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tình hình kinh tế-xã hội của TP Hồ Chí Minh đi vào khủng hoảng, trạng thái lo âu, thấp thỏm về cuộc sống của người dân xuất hiện. Tình hình “ngăn sông cấm chợ” làm trì trệ sản xuất. Thực trạng đó cho thấy, những quan niệm về cải tạo kinh tế của đồng chí Nguyễn Văn Linh là có cơ sở lý luận và thực tiễn. Cuối năm 1981, đồng chí Nguyễn Văn Linh được Bộ Chính trị cử làm Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh.
Trở lại cương vị Bí thư Thành ủy, với tình hình kinh tế-xã hội, văn hóa-tư tưởng, sau một thời kỳ bị xáo trộn đã có chiều hướng xấu hơn nhiều. Vấn đề cơ chế quản lý chung có nhiều mặt không còn phù hợp, không khuyến khích tài năng và nhiệt tình lao động. Một bộ phận dân cư mức sống ngày càng sa sút.
Trước tình hình đó, đồng chí đã nhận thấy những vi phạm lớn của Thành ủy, đó là chưa thấy TP là “tài sản của chính chế độ mới", chưa nhận thức được thực trạng kinh tế của TP có mức độ nhất định về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chưa đánh giá đúng đắn, đầy đủ những tồn đọng của xã hội cũ, chưa xác định rõ hai mục tiêu: Mở rộng, nâng cao sản xuất và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Nhờ chỉ rõ sự thật, đồng chí Nguyễn Văn Linh chú trọng đến việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, cải tiến các hoạt động lưu thông phân phối, phát triển thương nghiệp, coi đó là những thế mạnh kinh tế của TP; đồng thời chống đầu cơ, tích trữ, ổn định thị trường để tạo sự ổn định đời sống nhân dân, kết hợp giữa cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng là chủ yếu. Nhờ đó, các vấn đề kinh tế-xã hội của TP Hồ Chí Minh bước đầu được giải quyết có hiệu quả, đời sống nhân dân được cải thiện.
Qua nghiên cứu, khảo sát thực tế, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã ủng hộ những mô hình tiên tiến như xí nghiệp dệt Thành Công, Phong Phú, Phước Long, Thắng Lợi, Dệt đay 13, Xí nghiệp cơ khí Caríc, Silico, Vinapro, Sinco, Công ty bột giặt miền Nam, Xí nghiệp dược phẩm 2-9, Xí nghiệp dược thú y, Nhà máy bia Sài Gòn, Xí nghiệp thuốc lá... Những mô hình mới này đã áp dụng chế độ lương khoán sản phẩm; tự tìm tòi tháo gỡ những khó khăn về vật tư, nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm và đã làm ăn có lãi. Đồng chí đã đề nghị Thành ủy cho phép nhân diện rộng điển hình, mở rộng liên kết với các xí nghiệp của tỉnh bạn và các xí nghiệp trung ương, bước đầu mở rộng quan hệ kinh tế, buôn bán với nước ngoài. Từ thực tế, đồng chí cho rằng: Trả về cho sản xuất sự vận hành đúng quy luật của nó, muốn sản xuất "bung ra", các doanh nghiệp phải được giao quyền tự chủ, phải phá bỏ cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp. Đồng chí đã mạnh dạn mở “cái chốt cửa” của cơ chế quan liêu, bao cấp để chuyển sang cơ chế sản xuất hàng hóa.
Xí nghiệp dệt Thành Công được chọn xây dựng mô hình thí điểm về cơ chế tự chủ, theo quy luật kinh tế khách quan. Sau khi đạt kết quả tốt, đồng chí đã cho phép mở rộng cơ chế tự chủ ra nhiều xí nghiệp, nhiều loại hình sở hữu khác nhau. Trong bối cảnh được "bật đèn xanh", nhiều cơ sở sản xuất đã tự giác bàn bạc, lập đề án đổi mới cơ chế quản lý tự chủ trong sản xuất.
Từ kết quả đổi mới của Xí nghiệp dệt Thành Công, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã tập hợp 80 giám đốc các cơ sở sản xuất tham dự để nghe Giám đốc Xí nghiệp dệt Thành Công báo cáo tổng kết kinh nghiệm, cùng thảo luận, rút ra những bài học về quản lý tổ chức sản xuất. Từ đó, hình thành Câu lạc bộ giám đốc để trao đổi kinh nghiệm quản lý sản xuất, kinh doanh. Từ thực tiễn phong phú và sinh động đó đã hình thành những khái niệm mới về kinh tế thị trường như: Kế hoạch ba phần, xí nghiệp-cơ sở vệ tinh, loại hình công tư hợp doanh… Đó là những yếu tố mới, những khái niệm mới ra đời trong nền kinh tế thị trường non trẻ tại TP Hồ Chí Minh.
Từ thành công đó, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 34/UB-QĐ về hoạt động của các xí nghiệp công nghiệp nhỏ, do vậy sau thời gian ngắn, nền kinh tế của TP có những bước chuyển động lớn. Hàng chục nghìn cơ sở sản xuất nhỏ và sản xuất gia đình trước đó bị đình trệ đã được khôi phục và hoạt động trở lại, một số mô hình công tư hợp doanh mới được thử nghiệm. Đầu tàu của kinh tế thị trường đã khởi động, vấn đề còn lại là con đường cho nó vận hành?
Nhân dịp các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước (gồm các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công) đang nghỉ ở Đà Lạt (tháng 7-1983), đồng chí Nguyễn Văn Linh và một số giám đốc các xí nghiệp trực tiếp gặp gỡ, đề đạt nguyện vọng chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế của TP Hồ Chí Minh và mời ba đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước thăm cơ sở chế biến tơ tằm và xí nghiệp chè (cơ sở của TP Hồ Chí Minh tại Bảo Lộc). Qua trao đổi và tham quan thực tế các cơ sở sản xuất đã thuyết phục và góp phần làm thay đổi quan niệm về quản lý kinh tế của lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
"Sự kiện Đà Lạt" diễn ra trong thời gian một tuần (từ 12 đến 19-7-1983), đánh dấu sự thay đổi về tư duy kinh tế trong lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, mà đồng chí Nguyễn Văn Linh là người mạnh dạn đề xuất về chuyển đổi từ mô hình kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường. Và đồng chí trở thành Tổng Bí thư đầu tiên của công cuộc đổi mới đất nước.
TS PHẠM ĐÀO THỊNH