QĐND - Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã chính thức được khởi công tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc (Hà Nội) vào ngày 19-9 vừa qua. Đây là Dự án đặc biệt quan trọng trong chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ (CNVT) trong nước, một bước ngoặt của ngành khoa học nghiên cứu không gian của Việt Nam.

Nhân sự kiện trên, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc phỏng vấn với Giáo sư Châu Văn Minh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam để hiểu rõ hơn về Dự án chiến lược này.

Chủ động trong việc thiết kế, chế tạo

- Thưa Giáo sư, nói đến CNVT, chúng ta liên tưởng đến một lĩnh vực khoa học công nghệ cao, khả năng chinh phục và sử dụng khoảng không vũ trụ để phục vụ lợi ích con người. Giáo sư có thể cho biết đôi nét về những tiện ích, khả năng khai thác ứng dụng của Trung tâm vũ trụ?

- Tôi có thể khẳng định tiện ích từ CNVT là rất lớn, vì đây là một ngành công nghệ cao, tích hợp nhiều ngành khoa học công nghệ khác nhau, nhằm chế tạo, điều khiển và khai thác ứng dụng các phương tiện như vệ tinh nhân tạo, tàu vũ trụ, tên lửa, trạm mặt đất… góp phần cảnh báo sớm thảm họa thiên tai, theo dõi các sự kiện lớn của thế giới qua hệ thống phát thanh, truyền hình…

- Trên thế giới, CNVT đã phát triển vượt bậc, còn đối với Việt Nam, chúng ta đã chuẩn bị cho Chiến lược và kế hoạch phát triển CNVT như thế nào, thưa giáo sư?

Giáo sư Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

- Nhằm mục tiêu thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng CNVT, đưa ngành này phục vụ thiết thực sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển kinh tế - xã hội bền vững, đồng thời phục vụ an ninh - quốc phòng, từ giữa năm 2002 Chính phủ đã giao cho Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, các bộ, ngành có liên quan, xác định chiến lược cũng như kế hoạch phát triển của CNVT Việt Nam.

Tiếp đó, vào tháng 6-2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng CNVT đến năm 2020” nhằm xác định mục tiêu, nội dung và giải pháp nghiên cứu và ứng dụng CNVT đến năm 2020. Quan điểm chỉ đạo bao trùm của chiến lược này là phục vụ thiết thực và có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quản lý tài nguyên, giám sát môi trường và thiên tai cũng như nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc theo phương châm kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng; góp phần nâng cao vị thế quốc tế, tiềm lực khoa học - công nghệ và sức mạnh của quốc gia.

Một trong các nhiệm vụ quan trọng là chúng ta cần chủ động trong việc thiết kế, chế tạo, thử nghiệm và điều khiển vệ tinh nhỏ quan sát Trái Đất của riêng mình, phục vụ cảnh báo đề phòng những thảm họa thiên tai, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường và an ninh quốc gia.

Quy mô dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ

- Giáo sư có thể nói cụ thể hơn về Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam trong Chiến lược tổng thể và "dài hơi" nêu trên?

- Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam được triển khai trên diện tích rộng gần 9ha, nằm trong Khu Công nghệ cao Hòa Lạc (thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội). Dự án có tổng nguồn đầu tư 54 tỷ yên (khoảng hơn 690 triệu USD) từ nguồn vốn ODA ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ ta. Đây là dự án đặc biệt quan trọng trong “Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng CNVT đến năm 2020” do Trung tâm Vệ tinh Quốc gia thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam triển khai.

Trung tâm Vũ trụ Việt Nam sau khi hoàn thành sẽ đảm trách nhiệm vụ quan trọng: Làm chủ công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát Trái đất, có khả năng quan sát toàn lãnh thổ Việt Nam trong mọi điều kiện thời tiết với độ phân giải cao bằng công nghệ ra-đa hiện đại. Trung tâm sẽ được đầu tư tập trung, đồng bộ và bài bản nhằm mục tiêu Việt Nam có thể tự thiết kế, tích hợp, chế tạo và thử nghiệm vệ tinh. Khi đó, chúng ta sẽ chủ động được việc sử dụng ảnh vệ tinh vào các lĩnh vực đời sống, phát triển kinh tế - xã hội và góp phần bảo vệ Tổ quốc. Trung tâm Vũ trụ còn có nhiệm vụ cập nhật hệ thống bản đồ điện tử phục vụ quản lý và quy hoạch đất đai; nghiên cứu và phòng, chống biến đổi khí hậu toàn cầu.

Phối cảnh Trung tâm Vũ trụ Việt Nam - dự án vừa được khởi công tại Hòa Lạc (Hà Nội). Ảnh: T.L.

- Thưa Giáo sư, là dự án chiến lược, nên phải có lộ trình, bước đi khá rõ ràng, vậy nhiệm vụ cụ thể từ nay đến năm 2015 là gì?

- Ban chủ nhiệm chương trình Khoa học CNVT đã xây dựng khung chương trình nghiên cứu đến năm 2015, trong đó sẽ tập trung nghiên cứu ứng dụng các loại dữ liệu vệ tinh để mô hình hóa, dự báo và cảnh báo thiên tai, quản lý tài nguyên, môi trường; chú trọng về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nguy cơ nước biển dâng ở nước ta. Hiện nay muốn chụp ảnh khu vực nào, chúng ta phải đặt hàng, sau đó ít nhất hơn 2 ngày mới nhận được. Còn sau này, khi đã có vệ tinh riêng, mọi việc sẽ được hoàn tất trong vòng 12 tiếng đồng hồ. Chẳng hạn như việc cảnh báo thiên tai, phòng chống lũ, nếu có ảnh vệ tinh một cách chủ động, chắc chắn chúng ta sẽ hạn chế được nhiều thiệt hại so với hiện nay…

- Để Việt Nam có Trung tâm Vũ trụ hiện đại hàng đầu Đông Nam Á, chúng ta đã gặp phải những khó khăn gì trong quá trình triển khai thực hiện, thưa giáo sư?

- Chúng tôi đã gặp khá nhiều khó khăn trong quá trình triển khai Dự án. Bởi, đây là một Dự án hết sức đặc biệt, ở lĩnh vực công nghệ cao nhưng lại dùng vốn ODA. Tuy vậy, nhờ sự quan tâm, ủng hộ và vai trò đặc biệt quan trọng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đã chính thức được khởi công vào ngày 19-9-2012 vừa qua.

Có thể nói, Dự án xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam là một bước ngoặt của việc đầu tư các dự án ODA trong lĩnh vực công nghệ cao đối với cả Nhật Bản và Việt Nam. Về công nghệ, chúng ta cũng xác định một cách rõ ràng hướng đi, đối tác chính là Nhật Bản, bởi Nhật Bản đã có kinh nghiệm hơn 40 năm phát triển CNVT. Thách thức khó khăn lớn nhất theo tôi lúc này là con người - yếu tố quyết định để thực thi có hiệu quả công việc của Trung tâm. Đây là vấn đề mà chúng tôi trăn trở và quan tâm nhất hiện nay.

- Vậy giải pháp để có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ dự án này như thế nào?

- Cùng với việc gửi cán bộ giỏi đi đào tạo ở nước ngoài, chúng tôi cũng đã có các chương trình đào tạo ngay trong nước, chẳng hạn phối hợp với Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội để đào tạo cán bộ, nhân viên hệ cao học, ngay năm nay đã bắt đầu đào tạo 16 học viên cao học chuyên ngành vũ trụ và ứng dụng. Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng sẽ phối hợp với Trung tâm Vệ tinh Quốc gia đảm nhiệm việc đào tạo kỹ sư CNVT, đặc biệt là chuyên ngành công nghệ vệ tinh. Khoảng 350 nhà khoa học, chuyên gia và nhà quản lý có trình độ cao trong lĩnh vực CNVT sẽ được đào tạo tại hợp phần thứ ba của dự án.

- Xin cảm ơn Giáo sư!

Theo kế hoạch, năm 2016 sẽ hoàn thành công tác xây dựng cơ bản Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, chuẩn bị thiết bị, công nghệ để đầu năm 2017 sẽ phóng vệ tinh đầu tiên. Vệ tinh này sẽ được thiết kế, chế tạo và lắp ráp tại Nhật Bản.

Dự kiến tháng 1-2017, Việt Nam sẽ phóng vệ tinh viễn thám công nghệ ra-đa đầu tiên và năm 2020 sẽ phóng vệ tinh thứ hai. Mỗi vệ tinh có trọng lượng khoảng 500kg, tuổi thọ 5 năm. Vệ tinh đầu do Việt Nam và Nhật Bản phối hợp thiết kế và sản xuất. Vệ tinh thứ 2 do Việt Nam tự thiết kế lắp đặt và chế tạo ngay tại Trung tâm Vũ trụ Việt Nam.

(Nguồn: Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam)

 Lê Xuân Đức (thực hiện)