 |
Quảng trường Trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột hôm nay |
Ba mươi hai năm sau ngày giải phóng, thành phố Buôn Ma Thuột đã vươn lên xứng tầm là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của Tây Nguyên. Với những định hướng đúng, chính sách phù hợp và cách làm năng động, sáng tạo của những người con tràn đầy nhiệt huyết, trong tương lai không xa, Buôn Ma Thuột trở thành đô thị tiêu biểu của thời đại CNH-HĐH.
CÒN MÃI TRANG SỬ VÀNG
Buôn Ma Thuột thành lập ngày 22-11-1904, trải qua lịch sử hơn 100 năm hình thành và phát triển, quân và dân các dân tộc trên đô thị cao nguyên này đã đi qua biết bao thăng trầm. Nhưng điều cốt lõi, điều đã làm lên truyền thống của thành phố anh hùng này chính là tinh thần quật khởi chống giặc ngoại xâm, là tấm lòng yêu nước nồng nàn. Và chính những truyền thống tốt đẹp đó đã tạo sức mạnh để quân và dân Buôn Ma Thuột chung sức cùng cả nước làm lên một “Chiến thắng Buôn Ma Thuột” - mở đầu cho Đại thắng mùa Xuân 1975. Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên, mà tiêu biểu là Chiến thắng Buôn Ma Thuột ngày 10-3 có ý nghĩa chiến lược, tạo thời cơ cho tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Với cựu chiến binh Lê Minh Toản, nguyên Tham mưu trưởng Tỉnh đội Đắc Lắc từ năm 1972 đến 1976 thì Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã để lại trong cuộc đời binh nghiệp của ông những dấu ấn khó phai mờ. Theo lời kể của vị Đại tá già, trong căn phòng nhỏ của ông trên phố Lê Hồng Phong, thành phố Buôn Ma Thuột, chúng tôi mới biết vào thời điểm đầu tháng 3-1975, chuẩn bị cho chiến dịch Tây Nguyên, ông chính là người lập phương án chiến đấu cho LLVT Đắc Lắc trong tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột. Và trong cuộc tiến công ấy, ông đã trực tiếp là chỉ huy đơn vị nổ súng tiêu diệt định ở vùng ven thị xã, trước khi bộ đội chủ lực tiến công các mục tiêu chủ yếu của địch trong nội thị. Năm danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ” và tấm bằng khen thành tích xuất sắc trong cuộc tiến công Buôn Ma Thuột được ông treo trang trọng trên tường phần nào nói nên những đóng góp của cá nhân ông trong giải phóng Buôn Ma Thuột.
Là những người trực tiếp cầm súng chiến đấu, từ khi còn là chàng trai 16 tuổi, nay bước sang tuổi 74, vị Đại tá già Lê Minh Toản cũng như nhiều cựu chiến binh hiện còn sinh sống trên thành phố cao nguyên này vẫn nhắc nhở nhau dành những tình cảm hết sức đặc biệt cho đồng đội, cho những người đã ngã xuống. Trong ngôi nhà nhỏ của mình, ông dành một căn phòng nhỏ, trong đó lập ba bàn thờ, một thờ Bác Hồ, một thờ tổ tiên ông bà, bàn thờ còn lại ông tưởng nhớ tới hơn 4 nghìn liệt sỹ hy sinh trên chiến trường Đắc Lắc, trong số đó còn 500 liệt sỹ chưa tìm thấy hài cốt. Bây giờ tuổi đã cao, sức yếu, vết thương hay tái phát nhưng hễ có người thân của đồng đội cũ trở lại chiến trường Đắc Lắc tìm mộ liệt sỹ là ông Toản và anh em trong cựu chiến binh lại khăn gói lên đường, kết quả đã có hơn 100 hài cốt liệt sỹ được tìm kiếm và quy tập về nghĩa trang.
Gắn bó với Đắc Lắc, với thành phố Buôn Ma Thuột từ năm 1962, khi Buôn Ma Thuột còn chìm trong khói lửa chiến tranh, đến nay Buôn Ma Thuột đã vươn lên thành đô thị loại II, ông Lê Minh Toản cũng như nhiều cựu chiến binh khác rất phấn khởi, tự hào. Dẫn chúng tôi thăm thành phố, ông Lê Minh Toản giới thiệu từng vị trí của Tiểu khu Đắc Lắc, của sở chỉ huy sư đoàn 23 ngụy; của sân bay Hoà Bình, sân bay thị xã, tổng kho Mai Hắc Đế của địch... Tất cả nay đã thành những khu phố mới, những công sở khang trang. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 6-11-1978, LLVT Buôn Ma Thuột được tuyên dương danh hiệu “Anh hùng LLVT nhân dân”.
CHIẾN THẮNG NGHÈO ĐÓI VÀ LẠC HẬU
Sau ngày giải phóng, Buôn Ma Thuột có dân số hơn 120 nghìn người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là 53 nghìn người, sinh sống ở 7 phường nội thị và 12 xã vùng ven. Do phải dốc toàn lực cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nên có thể nói cuộc sống của nhân dân các dân tộc Buôn Ma Thuột trong những năm đầu mới giải phóng là vô cùng khó khăn thiếu thốn. Cả thị xã Buôn Ma Thuột thời điểm sau giải phóng có tới 60 nghìn người thiếu đói, 40 nghìn người thất nghiệp. Trong khi đối mặt với biết bao khó khăn, gian khổ, quân và dân Buôn Ma Thuột còn phải tập trung sức đấu tranh trong thời gian dài nhằm truy quét bọn phản động Fulro, cảm hoá những người lầm lỡ nghe theo bọn phản động.
Chủ tịch UBND thành phố Buôn Ma Thuột, Huỳnh Ngọc Luân tâm sự, “Trước giải phóng, Buôn Ma Thuột tuy là thị xã nhưng về kinh tế hầu như không có gì ngoài một vài đồn điền cao su, cà phê với quy mô nhỏ. Thương mại dịch vụ chưa phát triển. Đời sống nhân dân rất cùng cực, thiếu đói, bệnh tật, thất học. Cơ sở hạ tầng rất thấp kém, có một vài công trình nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ chiến tranh”.
Trong những năm đầu giải phóng, Buôn Ma Thuột đã tập trung sức giải quyết hậu quả chiến tranh và xoá bỏ tàn dư của chế độ cũ; chăm lo xây dựng cuộc sống mới, trong đó tiến hành khẩn trương việc định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở các buôn Kbu, Buôr, Chư Lui (xã Hoà Xuân), buôn Kô Tam, Chu Káp, Chư Ta (xã Ea Tu), mở 6 công trường khai hoang với 17 nghìn người tham gia nhằm giải quyết tìn trạng thiếu lương thực...
Từ một thị xã nông nghiệp, tập quán sản xuất lạc hậu, Buôn Ma Thuột đã mau chóng phát triển, trở thành đô thị sầm uất vào loại bậc nhất ở Tây Nguyên thời kỳ đổi mới. Bây giờ lên Buôn Ma Thuột, những dấu tích đổ nát, hoang tàn của chiến trường xưa không còn nữa. Thay vào đó là những công xưởng, những nhà máy, những khu phố mới khang trang. Nơi sư đoàn 23 ngụy đặt đại bản doanh, nay đã sừng sững một doanh trại quân đội của Bộ CHQS tỉnh Đắc Lắc chính quy và có môi trường văn hoá tiêu biểu của Quân khu 5. Vị trí tổng kho Mai Hắc Đế nay đã mọc lên những khu phố mới, những “làng quân nhân” văn hoá của phường Tân Thành. Sân bay Hoà Bình đã trở thành cảng hàng không Buôn Ma Thuột có quy mô lớn nhất Tây Nguyên có thể tiếp nhận máy bay A320. Sân bay thị xã - nơi bộ đội đặc công 198 bí mật tiến công sáng sớm ngày 10-3-1975 nay được quy hoạch thành Quảng trường thành phố và trụ sở các cơ quan Nhà nước.
Thời kỳ đổi mới, Buôn Ma Thuột đã vươn lên nhanh chóng, xứng đáng là đầu tàu của tỉnh Đắc Lắc, là trung tâm kinh tế, chính trị của cả Tây Nguyên: Tốc độ tăng trưởng bình quân của Buôn Ma Thuột đạt 13%/năm. Từ nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc là chính, đến năm 2006, Buôn Ma Thuột đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh thương mại-dịch vụ và công nghiệp-xây dựng nhằm tạo diện mạo mới cho đô thị thời kỳ CNH-HĐH: Tỷ trọng thương mại-dịch vụ chiếm 48,84%; công nghiệp-xây dựng 36,72%; nông-lâm nghiệp giảm xuống còn 14,44%. Thu ngân sách năm 2006 của Buôn Ma Thuột đạt 464 tỷ đồng, chiếm hơn 40% tổng thu ngân sách của tỉnh Đắc Lắc. Thu nhập bình quân đầu người 12 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ nghèo hiện còn 8%, thấp hơn 3 lần so với tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh. Buôn Ma Thuột hiện có 33 công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất, 100% thôn, buôn có điện sinh hoạt, hệ thống đường giao thông được đầu tư nhựa hoá và bê tông hoá. Toàn thành phố có 120 trường học, trong đó có trường đại học của cả vùng Tây Nguyên. Năm 2005, Buôn Ma Thuột hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Các khu, cụm công nghiệp có quy mô lớn được hình thành. Điển hình là Khu công nghiệp Hoà Phú rộng 181 ha, cụm tiểu thủ công nghiệp rộng 48,5 ha… Các cụm công nghiệp Tân An và Thành Nhất cũng đã được quy hoạch. Giá trị sản xuất công nghiệp hàng năm của thành phố chiếm gần 50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Đắc Lắc.
Sau một hồi say sưa giới thiệu về quy hoạch đô thị, Chủ tịch Huỳnh Ngọc Luân nói như khẳng định: “Để xứng đáng với tầm vóc chiến thắng 30-4, chúng tôi quyết tâm phấn đấu đến năm 2020, Buôn Ma Thuột trở thành đô thị loại I, thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của Tây Nguyên”. Chi tay anh, chúng tôi trở về khi không khí kỷ niệm ngày chiến thắng tràn ngập trên khắp phố phường.
Bài và ảnh: Kiều Bình Định