(Tiếp theo và hết)

QĐND - Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Trong suốt quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo và tiến hành đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng thực sự ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành trọng trách chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH). Đổi mới tư duy, nhận thức lý luận về xây dựng Đảng một cách đầy đủ, toàn diện qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới là những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.

Xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng

Xác định đúng bản chất của Đảng là vấn đề cực kỳ quan trọng, chi phối toàn bộ công tác xây dựng Đảng và hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân, mà còn với phong trào yêu nước. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện rõ tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, là sự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã nhiều lần khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Từ quan điểm đó, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân, mà còn là vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Chính vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, trong lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn được nhân dân yêu thương, cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ. Nhân dân thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của chính mình, đại diện cho lợi ích của mình trong xã hội.

Từ nhận thức và thực tiễn đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Khẳng định bản chất của Đảng vừa thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa thể hiện nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam, đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân Việt Nam. Khẳng định bản chất của Đảng như trên hoàn toàn không phải hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, mà chính là hiểu bản chất của Đảng ta một cách sâu sắc, nhuần nhuyễn hơn. Điều đó đòi hỏi Đảng ta không những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải tích cực học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo của nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Nhận thức đầy đủ và sâu sắc về bản chất của Đảng chính là bước phát triển về tư duy lý luận, là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; một thành tựu nổi bật về công tác xây dựng Đảng qua 30 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng, vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”. Trong cuốn “Đường Kách mệnh”, Người viết: “Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh… Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Những quan điểm, tư tưởng đó thể hiện vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng đối với đất nước, đối với nhân dân và dân tộc Việt Nam. Phát triển quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò, thẩm quyền và trách nhiệm của Đảng ngày càng được thể hiện rõ nét trong thực tiễn của đời sống xã hội. Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), khẳng định: Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống đó. Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của Nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với những thành tựu đạt được nêu trên, công tác xây dựng Đảng qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới còn được thể hiện ở việc xác định rõ ràng, đầy đủ về nền tảng tư tưởng của Đảng. Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng, tạo tiền đề, điều kiện để Đảng hoàn thành trọng trách cầm quyền lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ: Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Chính từ nhận thức đó mà Đảng ta đã xác định được các chủ trương, biện pháp, nội dung, nhiệm vụ về công tác xây dựng Đảng vừa mang tính chiến lược, vừa tập trung giải quyết được những vấn đề cấp bách đặt ra, vừa phù hợp với điều kiện, thực tiễn khách quan, mang lại hiệu quả. Bởi vậy, trên lĩnh vực công tác xây dựng Đảng, Đảng đã có nhiều giải pháp mang tính đồng bộ chú trọng cả xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồng thời chủ động và thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo.

Thành tựu trong công tác xây dựng Đảng

Thực hiện đường lối đổi mới, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng. Theo đó, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xuất phát từ vị trí, vai trò và sứ mệnh của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cho thấy: Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Tiến hành công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không chỉ là trách nhiệm, nhiệm vụ của các tổ chức đảng và đảng viên, mà đó là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi tầng lớp nhân dân và của cả dân tộc. Bởi, Đảng có mạnh mới đủ sức lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước, lãnh đạo dân tộc giành thắng lợi. Lịch sử dân tộc đã minh chứng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta được hoàn toàn giải phóng; đất nước ta hoàn toàn được độc lập; nhân dân ta được hoàn toàn tự do; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao; vị thế Việt Nam ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích nào khác, mục tiêu nào khác là phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, giàu mạnh; nhân dân được hưởng hạnh phúc, ấm no, “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Kế thừa kinh nghiệm và kết quả đạt được trong thực tiễn công tác xây dựng Đảng, nhất là việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII, Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng tuy thời gian chưa dài, nhưng với quyết tâm chính trị cao, cùng sự đồng thuận, giúp đỡ của nhân dân, bước đầu đã giành được những kết quả hết sức quan trọng, có tác động góp phần thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định trong ngăn ngừa, đầy lùi tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng từng bước được nâng cao. Qua kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; với công tác thanh tra, kiểm toán của Nhà nước và công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan bảo vệ pháp luật, chỉ tính trong 3 năm (2012, 2013, 2014), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hơn 54.000 đảng viên ở các cấp; xóa tên, cho ra khỏi Đảng hàng nghìn trường hợp khác, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm; siết lại kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi được một số biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, góp phần làm trong sạch nội bộ Đảng.

Thành tựu về công tác xây dựng Đảng trong 30 năm qua còn được thể hiện trên lĩnh vực công tác tư tưởng. Trong tiến hành công tác tư tưởng, Đảng ta đã tiến hành đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp, trong đó đặc biệt là tổ chức thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị (khóa X) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị (khóa XI) về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; xác định thực hiện tốt việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện pháp quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng. Đến nay, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã trở thành việc làm thường xuyên, quan trọng trong đời sống hằng ngày của mỗi tổ chức đảng, của từng cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên lĩnh vực xây dựng Đảng về tổ chức, Đảng luôn khẳng định tính đồng bộ, toàn diện trong xây dựng Đảng ở mọi cấp; thấy rõ và sâu sắc hơn sự tác động qua lại giữa xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở và cấp trên cơ sở; mối quan hệ giữa xây dựng tổ chức với nâng cao chất lượng đảng viên. Đảng đã bổ sung, phát triển các nguyên tắc, tổ chức hoạt động trong tình hình mới; thực hiện đồng bộ các giải pháp về công tác cán bộ, từ việc phát hiện, quy hoạch đến đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ… Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Bộ Chính trị quyết định tổ chức 2 lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho hơn 150 đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI); 6 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn cao cấp cho hơn 500 đồng chí; 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ theo chức danh cho hơn 170 đồng chí bí thư cấp ủy cấp huyện; điều động, luân chuyển, sắp xếp, bố trí lại nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đương chức và trong quy hoạch ở Trung ương, các địa phương, phục vụ công tác chuẩn bị nhân sự đại hội đảng bộ cấp tỉnh, thành phố nhiệm kỳ 2015-2020 và Đại hội XII của Đảng. Đặc biệt, Đảng ta ngày càng xác định rõ hơn tiêu chuẩn của từng loại cán bộ trong thời kỳ đổi mới, nhấn mạnh các tiêu chuẩn về lập trường tư tưởng, chính trị; năng lực thực tiễn; uy tín trong Đảng, trong nhân dân; tư duy đổi mới, sáng tạo, khả năng tiếp cận, nắm bắt, xử lý hiệu quả các vấn đề mới phát sinh; đoàn kết, dân chủ, sâu sát, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; không tham ô, tham nhũng, lãng phí…

 Với những thành tựu đạt được trên từng lĩnh vực đã góp phần quan trọng xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Thành tựu trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới để Đảng ta xứng đáng là người lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

*  Lời kết: Thật khó có thể kể hết, nêu hết những thành tựu trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, loạt bài viết chỉ xin đề cập những nét khái quát trên một số lĩnh vực, một số vấn đề hết sức cơ bản trong chặng đường 30 năm thực hiện đường lối đổi mới. Qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong điều kiện, hoàn cảnh còn không ít khó khăn, thách thức; nhưng những thành tựu mà Đảng ta, nhân dân ta đã đạt được là hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử khẳng định việc tiến hành đổi mới là sự lựa chọn chính xác và minh chứng đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, cách mạng, khoa học. Thành tựu đó là cơ sở để tạo dựng niềm tin, tiếp tục phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc và bài học kinh nghiệm từ thực tiễn, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua khó khăn, thách thức tiến lên giành những thắng lợi mới, phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, tiến lên CNXH trong giai đoạn cách mạng mới.

LÊ NGỌC LONG


Bài 1: Sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng 

Bài 2: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 

Bài 3: Giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa