LTS: Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến năm 2016, công cuộc Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo vừa tròn 30 năm với 6 nhiệm kỳ đại hội. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của các tầng lớp Nhân dân, sự nghiệp Đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Báo Quân đội nhân dân gửi đến bạn đọc một số thành tựu cơ bản trên một số lĩnh vực trong chặng đường 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.

QĐND - Nhất quán với quan điểm thực tiễn, quan điểm đổi mới và phát triển, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, qua từng kỳ đại hội, Đảng ta từng bước bổ sung, hoàn chỉnh và không ngừng phát triển đường lối đổi mới phù hợp với xu thế phát triển của thời đại và điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Những thành tựu đạt được trong 30 năm Đổi mới minh chứng sự trưởng thành của Đảng về tư duy lý luận, nâng cao tầm tư tưởng, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính có trọng trách lãnh đạo Nhà nước và xã hội với tư cách một Đảng cầm quyền.

Đổi mới về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế

Nhìn lại 5 kỳ đại hội của Đảng giai đoạn vừa qua, một vấn đề nổi bật đó là sự đổi mới về tư duy, mà trước hết là tư duy kinh tế. Xét trên phương diện lý luận thì đổi mới tư duy là đổi mới nhận thức ở trình độ lý luận để khắc phục, vượt qua những hạn chế, khuyết điểm, thậm chí sai lầm của những nhận thức cũ, nhằm đạt tới những nhận thức mới, xây dựng tư duy lý luận khoa học, phản ánh đúng đắn, chính xác thực tiễn và có tác dụng thúc đẩy thực tiễn phát triển thông qua đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước dựa trên những luận cứ khoa học, chính xác. Nói theo một cách dễ hiểu hơn, đó chính là quá trình đổi mới cách nghĩ, cách quan niệm. Có cách nghĩ mới, có quan niệm mới sẽ dẫn đến cách làm mới, có phương pháp, phong cách hành động mới để tạo ra kết quả, hiệu quả mới.

Trong quá trình đổi mới, Đảng nhấn mạnh đổi mới tư duy kinh tế chính là để chú trọng vào bước chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế hàng hóa, phát triển sản xuất hàng hóa. Đây là quá trình thực hiện một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển chính là động lực lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế, vật chất; coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội. Theo đó, với hàng loạt chủ trương, giải pháp đồng bộ, cùng những bước đi vững chắc, phù hợp với trình độ sản xuất và năng lực quản lý nền kinh tế, Đảng đã lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế. Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng đã kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, phương thức quản lý kinh tế hành chính, mệnh lệnh, tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, cũng như bao cấp và bình quân... làm triệt tiêu động lực phát triển để áp dụng cơ chế thị trường, chú trọng hạch toán, tuân thủ quy luật giá trị và các quy luật của sản xuất hàng hóa.

Kiên trì về mục tiêu, linh hoạt trong tổ chức thực hiện, giữ vững nguyên tắc, tuân thủ quy luật trong lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nói riêng, xã hội nước ta nói chung đã nhanh chóng ra khỏi sức ỳ, sự trì trệ, trở nên năng động và tăng trưởng cao hơn. Nhờ đi vào kinh tế thị trường mà lực lượng sản xuất được giải phóng; trong hoạt động sản xuất-kinh doanh đã chú trọng đến năng suất, chất lượng, hiệu quả; khắc phục triệt để tình trạng “ngăn sông, cấm chợ”, mở rộng và kết nối thị trường không chỉ ở từng địa phương, trên phạm vi cả nước, mà còn là thị trường khu vực và quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Từ thử nghiệm cơ chế thị trường đến phát triển nền kinh tế thị trường; từ chỗ coi kinh tế tư nhân thuộc khu vực “phi xã hội chủ nghĩa” đến nhận thức vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, coi đó là động lực quan trọng để phát triển kinh tế; coi tất cả các thành phần kinh tế (kể cả kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…) đều là bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân. Đó là những kết quả hết sức nổi bật của đổi mới tư duy kinh tế. Việc nhấn mạnh: Đổi mới trước hết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, thực tiễn trong suốt 30 năm qua đã khẳng định: Đây là một lựa chọn chính xác của Đảng ta, là một đột phá tạo tiền đề nhận thức lý luận cho đổi mới. Tuy nhiên, đổi mới tư duy kinh tế chỉ là một điểm nhấn cần thiết, một nội dung chủ yếu của toàn bộ hệ vấn đề đổi mới tư duy của Đảng trong thực hiện công cuộc Đổi mới. Vì vậy, đổi mới tư duy kinh tế không phải là tất cả mà luôn có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với việc đổi mới tư duy trên các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, tạo ra sự đổi mới đồng bộ, toàn diện, bảo đảm để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đặc biệt, trong thực hiện đường lối đổi mới, Đảng đã kết hợp chặt chẽ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vừa vận động theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Cùng với đó, Đảng cũng tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp để đổi mới chính trị. Tuy nhiên, đổi mới chính trị ở nước ta không phải là thay đổi chế độ chính trị hiện nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về CNXH và con đường đi lên CNXH; đó cũng là quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung, phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ XHCN và một Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan Nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của Nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH

Đây là vấn đề lý luận tổng quát, bao trùm các vấn đề, các lĩnh vực cụ thể của đổi mới và phát triển ở nước ta. Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH góp phần làm sáng tỏ những điểm cốt yếu của lý luận đổi mới theo định hướng XHCN, lý luận CNXH ở Việt Nam. Thực tiễn qua 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhận thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH đã có những đổi mới căn bản so với quan niệm truyền thống về CNXH theo mô hình Xô-viết trước đây, phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Nhận thức mới của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH biểu hiện trước hết là hệ mục tiêu của đổi mới-đặc trưng tổng quát của CNXH ở Việt Nam. Ngay từ Đại hội VI của Đảng, Đảng ta đã xác định thực hiện đường lối đổi mới với mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh. Kế thừa và phát triển mục tiêu trên, qua các kỳ đại hội, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng luôn đặt và giải quyết mối quan hệ giữa dân giàu với nước mạnh ở vị trí hàng đầu. Đây là nền móng căn cốt, khởi đầu cho tư duy mới về CNXH–một CNXH dựa trên sự giàu có; khác xa với tư duy giáo điều một thời dị ứng với sự “giàu có”, coi giàu có là chủ nghĩa tư bản, sản phẩm của chủ nghĩa tư bản; quan niệm đó xa lạ với tư duy phát triển hiện đại mà chúng ta hướng tới trong Đổi mới.

Những mục tiêu nêu trên của Đại hội VI có giá trị định hướng rất quan trọng với sự phát triển của đất nước, mà sâu xa là phát triển tiềm lực sáng tạo của Nhân dân, hướng mục đích của Đổi mới vào việc phục vụ quyền lợi của Nhân dân. Từ những bước đi ban đầu và đem đến những thành công nhất định trong thực hiện đường lối đổi mới, mục tiêu tổng quát luôn được Đảng ta phát triển, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với quá trình nhận thức và sự phát triển của xã hội, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tổng kết, đánh giá thành tựu sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội X của Đảng khẳng định: 20 năm qua với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc Đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử... Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã được hình thành trên những nét cơ bản.

Kiên trì thực hiện, chủ động nghiên cứu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đến Đại hội XI của Đảng, Đảng ta đã hình thành hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm trên chính là 8 đặc trưng của xã hội XHCN được đề cập một cách cụ thể trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), bao gồm: “Xã hội, XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất phát triển hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Cùng với 8 đặc trưng trên, Đảng ta cũng đồng thời xác định 8 phương hướng xây dựng CNXH. Phương hướng đó chính là con đường, phương thức xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đặc biệt, Đảng nêu rõ 8 mối quan hệ lớn cần phải nhận thức đúng và giải quyết tốt, bao gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

Những mối quan hệ đó có quan hệ mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thế, một hệ thống toàn diện, thống nhất trong thực hiện sự nghiệp Đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là những quy luật, những tính quy luật mà công cuộc Đổi mới, xây dựng CNXH ở Việt Nam tất yếu phải tuân theo để đạt đến mục tiêu cao nhất: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Nhận thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng ta còn được thể hiện trên lĩnh vực lý luận trong đổi mới kinh tế, mà điểm cốt yếu, quan trọng nhất chính là xây dựng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó còn là lý luận về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế-xã hội nông thôn, giải quyết các vấn đề xã hội trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta. Đó còn là hệ thống lý luận về xây dựng nền dân chủ, Nhà nước pháp quyền XHCN và đổi mới hệ thống chính trị; hệ thống lý luận về phát triển văn hóa, xây dựng con người mới XHCN; về quốc phòng-an ninh, đối ngoại và về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Từ những nét khái quát nêu trên, có thể khẳng định và là minh chứng về sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng. Sự phát triển đường lối đổi mới của Đảng chính là thành tựu nổi bật nhất, bao trùm nhất trong thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Chính nhờ có đường lối đúng đắn, phù hợp, không ngừng được bổ sung, hoàn thiện qua từng kỳ đại hội, Đảng đã lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội, phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giành được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử, được thế giới ghi nhận. Việt Nam đã và đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư và bạn bè trên thế giới...

Bài 2: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

-------------------------------

LÊ NGỌC LONG