LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Cách mạng nước ta, để lại nhiều bài học quý giá không chỉ trong chỉ đạo chiến tranh, giành chính quyền, mà cả trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hôm nay. Nhân kỷ niệm 65 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, từ số báo hôm nay, Báo Quân đội nhân dân xin trân trọng giới thiệu một số bài học kinh nghiệm chủ yếu.
 |
Quân và dân Hà Nội đánh chiếm Phủ Khâm Sai (Bắc Bộ Phủ) ngày 19-8-1945. Ảnh tư liệu
|
Trong tất cả các cuộc cách mạng, đặc biệt là cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề xác định thời cơ, chuẩn bị lực lượng cách mạng để chớp thời cơ khởi nghĩa, là những yếu tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành bại. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một minh chứng sinh động về sự nhạy bén trong nhận định và chỉ đạo chớp thời cơ khởi nghĩa của Đảng ta.
Có thể nói, do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thời cơ, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh, ngay từ những năm đầu thập niên 20 (thế kỷ XX), đã sớm đưa ra quan điểm về thời cơ cách mạng ở Đông Dương đang đến gần. Người viết trong thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”.
Trên tinh thần đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5-1941) được triệu tập. Hội nghị nhận định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Trên cơ sở xác định quyết tâm phải giành cho được tự do, độc lập, Đảng chỉ đạo tích cực xây dựng lực lượng cách mạng, chủ động sẵn sàng đón thời cơ, nổi dậy giành chính quyền, khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa. Để hoàn thành được nhiệm vụ đó, Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh (tức Việt Minh), đưa ra Chương trình Việt Minh, kêu gọi nhân dân gương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tích cực chuẩn bị lực lượng, đứng về phe Đồng minh chống phát-xít.
Nhận định của Đảng dựa trên cơ sở phân tích khoa học và lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách biện chứng, khách quan, toàn diện, toàn cục; thể hiện tư duy nhạy bén của Đảng trong việc đánh giá thời cơ, đánh giá về so sánh lực lượng cách mạng giữa ta và địch, nắm vững quy luật vận động của chiến tranh; tính quy luật tất yếu có áp bức dân tộc, có đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc. Tầm vóc tư duy chiến lược của Đảng ta và Hồ Chí Minh là đã sớm nhìn thấy quy luật vận động cách mạng, suy đoán về thời cơ cách mạng, nhanh chóng triển khai thực hiện, để thúc đẩy tiến trình cách mạng từ lý luận trở thành thực tiễn. Tức là không thụ động chờ thời cơ, mà tích cực, chủ động tiến hành đấu tranh cách mạng để tạo ra thời cơ cách mạng, thể hiện bằng việc phát động phong trào xây dựng các tổ chức Việt Minh, các đoàn thể yêu nước: “Hội cứu quốc” trên phạm vi cả nước.
Ngày 9-3-1945, cuộc đảo chính của phát-xít Nhật đối với Pháp đã diễn ra, kéo theo nó là tình trạng khủng hoảng chính trị ở Việt Nam. Ngay lập tức Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và đưa ra những nhận định khách quan về thời cơ khởi nghĩa đang đến rất gần: “Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi”; và ra Chỉ thị: “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng quyết định phát động cao trào chống Nhật cứu nước.
Đến tháng 7-1945, phát-xít Đức, Ý đã thất bại trên chiến trường châu Âu. Ở châu Á, phát-xít Nhật đang trên đường thảm bại. Đảng ta khẳng định, tình thế cách mạng đã xuất hiện, đây là cơ hội giải phóng dân tộc ngàn năm có một: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do, độc lập”. Cả dân tộc ta theo tiếng gọi của Người, nhất tề đứng lên khởi nghĩa, chỉ trong chưa đầy một tháng, tất cả các địa phương trong cả nước đã giành thắng lợi nhanh gọn, thành lập chính quyền nhân dân.
Có thể khẳng định rằng, thành công lớn nhất của nghệ thuật khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám, là Đảng ta đã chọn đúng thời cơ “nổ ra đúng lúc”. Chọn đúng thời cơ là một khoa học và là một nghệ thuật, nhờ thế sức mạnh của toàn dân ta được nhân lên gấp bội, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước một cách nhanh, gọn, không đổ máu và thành công triệt để.
Thành công của Cách mạng Tháng Tám (1945), cho thấy Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, có tầm nhìn vượt trước thời gian, xác định đúng thời cơ, chớp thời cơ lãnh đạo nhân dân ta đứng lên tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Đây là sự vận dụng sáng tạo quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa và cách mạng, khôn khéo trong nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ, giành thắng lợi.
65 năm đã trôi qua, nhưng bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách mạng của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám (1945), vẫn còn nguyên giá trị thời sự.
Ngày nay, khi nhận định về thời cơ, chúng ta thấy bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đã có những thay đổi căn bản. Vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa nổi lên như một xu thế vận động tất yếu của thế giới hiện đại. Trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng mới, Đảng ta khẳng định, cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới thuận lợi chưa từng có, đồng thời cũng đang phải chịu những khó khăn, thách thức lớn.
Để nắm bắt được thời cơ, vượt qua thách thức, trong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, thời đại văn minh tri thức, Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính trị, yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố quyết định. Nếu như trước đây, trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng chủ trương xây dựng lực lượng, chủ động đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, thì giờ đây nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ được khoa học công nghệ, chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc.
Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước. Bởi vì, trong mối quan hệ biện chứng, một đất nước phát triển sẽ có tiềm lực và vị thế bảo đảm tính chủ động khi tham gia hội nhập quốc tế. Phát huy nội lực còn nhằm tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào bên ngoài, ảnh hưởng tới sự chủ động quốc gia trên trường quốc tế.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia trên thế giới, nhưng nếu chúng ta biết tranh thủ thời cơ, tận dụng những yếu tố thuận lợi, những thời cơ nảy sinh từ cuộc khủng hoảng (nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công rẻ, nhiều nước sẵn sàng chuyển giao công nghệ mới...), chúng ta sẽ vượt qua thách thức đưa đất nước tiếp tục tiến lên, vững bước trên con đường đổi mới.
TS Trần Minh Trường