Trước diễn biến căng thẳng của tình hình thế giới và âm mưu Nhật - Pháp tranh giành quyền lợi ở Đông Dương, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11-1939) chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Quán triệt tinh thần hội nghị, Xứ ủy Nam Kỳ thông qua “Đề cương cách mạng Nam Kỳ” (tháng 3-1940), thực chất là đề cương khởi nghĩa vũ trang, trong đó xác định thành lập các đội du kích, tự vệ làm nòng cốt khởi nghĩa.

Thực hiện chủ trương đó, việc xây dựng lực lượng du kích, tự vệ ở các tỉnh Nam Kỳ lúc đầu triển khai chậm và có những biểu hiện lệch lạc. Nắm bắt kịp thời tình hình, Xứ ủy Nam Kỳ tổ chức hội nghị (tháng 7-1940) đề ra một số nhiệm vụ cần kíp, trong đó xác định xúc tiến xây dựng các đội du kích, tự vệ, mua sắm vũ khí, luyện tập quân sự. Nhờ vậy, quá trình xây dựng lực lượng, phát triển các đội du kích, tự vệ từng bước chuyển biến mạnh mẽ. Do điều kiện của từng địa phương nên việc xây dựng lực lượng du kích, tự vệ mỗi nơi khác nhau về quy mô tổ chức, quân số, trang bị, vũ khí, cách huấn luyện và trình độ chiến đấu.

Các chiến sĩ từng tham gia Khởi nghĩa Nam Kỳ. Ảnh tư liệu 

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Kỳ, các địa phương lựa chọn đội viên từ các tổ chức quần chúng (Nông hội, Công hội, Đoàn Thanh niên phản đế...) tổ chức ra quân du kích theo tam tam chế: 3 người thành một tổ, 3 tổ thành một tiểu đội, 3 tiểu đội thành một trung đội, có đảng viên hoặc quần chúng tích cực chỉ huy và có đại biểu Đảng tham gia lãnh đạo. Đến giữa tháng 11-1940, trong số 21 tỉnh, thành phố của Nam Kỳ, có 18 địa phương tổ chức được các đội du kích, tự vệ, có đội quân số hàng trăm người. Các đội du kích Nam Kỳ trang bị chủ yếu vũ khí thô sơ, tự tạo (súng săn, giáo, mác, bom, mìn...) và một số súng trường, súng ngắn thu được của địch.

Về huấn luyện, do địch tăng cường các hoạt động do thám nên nhiệm vụ huấn luyện du kích, tự vệ gặp khó khăn. Tuy vậy, cấp ủy các địa phương bí mật đưa lực lượng du kích, tự vệ ra các căn cứ huấn luyện. Nội dung chủ yếu là cách đánh du kích trong thành phố, thị xã, đánh đồn, phục kích, cách đánh giao thông và học tập, quán triệt những nhiệm vụ cần kíp trước mắt, trong đó tập trung chuẩn bị lực lượng du kích, tự vệ làm nòng cốt khởi nghĩa theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ.

Mặc dù kế hoạch bị lộ do nội gián, quân Pháp ráo riết đề phòng, vây bắt cơ quan lãnh đạo khởi nghĩa và mệnh lệnh hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng chưa kịp phổ biến tới cơ sở, nhưng đúng thời gian quy định, cuộc khởi nghĩa vẫn diễn ra ở Nam Kỳ. Các đội du kích trở thành lực lượng nòng cốt hỗ trợ quần chúng nhân dân ở 18/21 tỉnh, thành phố của Nam Kỳ tiến hành khởi nghĩa. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm, lực lượng du kích Nam Kỳ đã cùng với nhân dân đánh chiếm nhiều đồn, bốt địch, diệt tề, trừ gian, bảo vệ chính quyền cách mạng ở nhiều vùng nông thôn rộng lớn và một số địa bàn sát đô thị. Nổi bật là lực lượng du kích do đồng chí Mười Đen, Xứ ủy viên chỉ huy, tiến công dinh quận và đồn Hóc Môn, phá cầu Bông, cầu Rạch Tra; tiếp đó, hạ các bốt ở Lăng Cha Cả, vườn Tiêu, ngã năm Vĩnh Lộc ở Gò Vấp (Gia Định). Du kích các quận thuộc Chợ Lớn tiến đánh dinh quận Trung Huyện, đánh đồn Bến Lức, diệt các bốt Voi, Cần Giuộc. Các đội du kích ở tỉnh Mỹ Tho hỗ trợ quần chúng ở 75 trong 114 xã nổi dậy diệt tề, sau một tuần, làm chủ vùng nông thôn rộng lớn. Lực lượng du kích tỉnh Vĩnh Long tiến công đánh chiếm quận lỵ và đồn Vũng Liêm, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ ở Cái Ngang (Tam Bình)... Trong khi đó, ở các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Bến Tre, Sa Đéc, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, quân du kích cũng hỗ trợ nhân dân nổi dậy ở một vài địa phương vùng nông thôn, gây cho địch một số thiệt hại.

Thực hiện lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, các đội du kích Nam Kỳ đã tiến công vào hệ thống chính quyền địch ở thôn, xã và một số quận, huyện lỵ, phá tề, trừ gian, triệt hạ đồn, bốt, phá hoại giao thông liên lạc, xóa bỏ chính quyền địch ở nhiều làng, xã. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều xã và một vài quận, có nơi giữ vững quyền làm chủ nhiều ngày (ở Mỹ Tho là hơn 40 ngày).

Do điều kiện khách quan, chủ quan chưa thuận lợi, lực lượng du kích Nam Kỳ còn non yếu, nhất là ở thành thị, trang bị vũ khí thô sơ nên ngày càng gặp khó khăn. Đầu năm 1941, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, quyết triệt hạ bằng được quân du kích, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Trước tình hình đó, Xứ ủy Nam Kỳ chưa kịp phổ biến chủ trương duy trì và phát triển lực lượng du kích tới các cơ sở thì toàn bộ Xứ ủy bị bắt. Để bảo toàn lực lượng, các đội du kích phải phân tán, bí mật rút vào các vùng căn cứ ở Đồng Tháp Mười, U Minh, Truông Mít (Tây Ninh), Biên Hòa duy trì hoạt động đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Kỳ, du kích Nam Kỳ đã hình thành, phát triển và hoàn thành sứ mệnh trở thành lực lượng nòng cốt, xung kích hỗ trợ nhân dân tiến hành Khởi nghĩa Nam Kỳ. Đây là một trong những tổ chức vũ trang cách mạng ban đầu của Đảng ở Nam Bộ; đồng thời là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội ta. Lực lượng du kích Nam Kỳ đã chiến đấu oanh liệt, nêu tấm gương dũng cảm, sáng tạo một số cách đánh du kích tiêu biểu cho ý chí đấu tranh quật cường để giành độc lập của dân tộc./.