Sinh năm 1939, 20 tuổi chàng trai Hà Đình Vạn nhập ngũ vào Trung đoàn 238, Quân khu 3. Đến năm 1966, Vạn được điều về Đại đội 2, Tiểu đoàn 74, Cục Nghiên cứu (Nay là Tổng cục II) với chức danh chính trị viên phó, đóng quân và huấn luyện tại xã Yên Vân, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Đây là lần đầu tiên Vạn gặp Trần Huyền lúc đó Huyền đang là phó đại đội trưởng. Vạn nhớ lại: “Trần Huyền có dáng người cao gầy, đẹp trai, rất giỏi võ thuật và hay hát, quê huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Bố Huyền đã mất khi Huyền còn nhỏ và mẹ Huyền cũng bị bom Mỹ giết hại. Huyền còn có người anh trai nhưng gia đình nghèo khó. Sống với Huyền, tôi học được ở anh rất nhiều từ sự chịu thương, chịu khó và quyết tâm trong huấn luyện, học tập. Hằng sáng và thậm chí cả khi đi ăn cơm, Huyền và tôi cùng đeo ba lô gạch để rèn luyện thể lực”.
Vợ chồng cựu chiến binh Hà Đình Vạn
Cuộc sống, công việc càng gắn kết đôi bạn thành tri kỷ. Những tâm tư, tình cảm và cả những đau buồn đều được hai người chia sẻ cho nhau. “Này cậu, tớ yêu rồi đấy. Tớ yêu một người con gái đảm đang thùy mị” - giữa đêm khuya, đang trằn trọc chưa ngủ, Vạn bỗng thấy tỉnh hẳn khi nghe Huyền trò chuyện về tình yêu của mình như vậy. “Sao! yêu lúc nào?”, Vạn thắc mắc. Huyền tiếp lời: “Cô ấy tên là Vương Thị Tiến, ở Lai Đà, xã Đông Hội, Đông Anh, Hà Nội. Hiện cô ấy đang là công nhân nhà máy hóa chất Đức Giang”. “Ái chà chà! Cha này gớm thật. Sang bên đó cắt lúa giúp dân mà dám “đánh cắp” trái tim con nhân dân cơ đấy”, Vạn đùa vui và thầm chúc phúc cho hai bạn.
Sau cuộc trò chuyện này, ít lâu sau, vào đầu năm 1967, Huyền xin phép đơn vị cưới vợ và Vạn – cậu bạn thân làm đại diện thay mặt gia đình và cơ quan đứng ra chủ trì hôn lễ. Gần 2 tháng sau, đơn vị được lệnh hành quân vào chiến trường B5; có nhiệm vụ nắm địch, lập hồ sơ binh yếu địa chí cứ điểm Cồn Tiên - Dốc Miếu, đánh bắt tù binh Mỹ, khai thác tin tức, báo cáo cho Bộ tư lệnh mặt trận hạ quyết tâm chiến đấu. Huyền trên cương vị Đại đội phó chỉ huy mũi nắm địch ở phía Nam cứ điểm Dốc Miếu, từ Cửa Tùng đến Cửa Việt. “Dọc đường hành quân, chúng tôi thường ở cuối đội hình để giúp đỡ và mang vác đồ tiếp các đồng chí, đồng đội bị ốm, mệt”. Trần Huyền thường nhắc đi nhắc lại với tôi: “Mày đứng ra tổ chức hôn lễ cho tao. Mai sau hòa bình nếu chúng mình còn sống tao sẽ đứng ra tổ chức cho mày. Nhưng nếu tao chẳng may có mệnh hệ gì, mày nhớ phải động viên Tiến giúp tao nhé”, anh Vạn nhớ lại.
Tháng 8-1967, Trần Huyền hy sinh khi đánh lạc hướng địch để tạo điều kiện cho đồng chí, đồng đội bảo vệ tài liệu và trang bị vật chất thông tin phục vụ chiến trường về đến căn cứ an toàn. Cuối năm 1968, Đại đội 2 rời chiến trường về đóng quân ở Yên Vân sẵn sàng đợi lệnh. Nhớ đến lời Huyền, Vạn đến nhà tìm Tiến để chào hỏi. Khi Tiến hỏi “Nhà em đâu?”, Tiến giơ cánh tay lên trả lời: “Huyền bị thương ở tay, đang dưỡng thương ở trạm xá quân y, đơn vị về trước, vài tháng nữa anh Huyền sẽ về thôi”. Chỉ đến khi, Tiến đến đơn vị thăm và hỏi tin chồng, được chị chủ nhà chỗ Vạn và Huyền ở cho xem tờ báo chiến trường có đăng tin “Dũng sĩ đâm lê Trần Huyền”, Tiến như ngất lịm trong vòng tay chị chủ nhà.
Ở Yên Vân một thời gian, năm 1970, Tiểu đoàn 74 hành quân về đóng quân ở Ba Vì và Vạn được giao cương vị là Chính trị viên Đại đội 4. Tuy cách trở nhưng ngày giỗ nào Vạn cũng đến nhà thắp hương cho Trần Huyền và hễ có dịp đi công tác là Vạn lại đến thăm động viên Tiến và gia đình. Trong thời gian này, gia đình cũng làm mối cho Vạn một số chỗ nhưng Vạn không ưng vì thấy các cô ấy còn trẻ và tân thời, anh sợ người lính chiến như anh không thể đem lại hạnh phúc cho họ.
Anh Vạn vui cười kể tiếp: “Thấy tôi mãi dùng dằng chuyện gia đình. Các thủ trưởng trong đơn vị nói: “Trẻ tân thời chú không hợp. Chú thấy cô Tiến như thế nào, vừa là đảng viên, vừa là chiến sĩ thi đua nhiều năm, lại đảm đang, nết na. Hơn nữa, chú và Trần Huyền lại là bạn thân, nay chú ưng cô Tiến, cũng là không để cho cô Tiến ôm tuổi xuân mà sầu muộn. Cái này vẹn cả đôi đường”. Lời nói của các anh, khiến tôi suy nghĩ về Tiến nhiều hơn. Sau khi hỏi ý kiến gia đình và được chấp thuận tôi đến nhà Tiến gặp anh trai ruột của Tiến (Tiến lúc này đang cùng anh trai làm chung ở công ty hóa chất Đức Giang và ở chung trong căn nhà của cơ quan cấp tạm). Tôi hỏi: “Tiến đã có mối nào chưa anh?”. Anh trai Tiến trả lời: “Có mấy người ở đơn vị và một thầy giáo đánh tiếng, nhưng Tiến không chịu”. Thấy vậy tôi nói “Để em yêu nhé!”. Chiều hôm đó, Tiến lấy xe đưa tôi ra ga Lim để bắt tàu về đơn vị. Trước khi tàu chuyển bánh, tôi hỏi Tiến: “Đã yêu ai chưa?”, “Chưa” Tiến lí nhí đáp lại. Tôi nói to: “Để anh yêu nhé!”. Thấy tôi nói vậy, Tiến lúng túng. “Về đi, tuần sau tớ đến”, tôi vừa nói, vừa vẫy tay và nhảy lên đoàn tàu đang chuyển bánh.
Đúng hẹn, Vạn đến gặp Tiến. Run run cầm tay Tiến, Vạn nói: “Trần Huyền là bạn anh, cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu. Không may Huyền đã hy sinh. Cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn, anh là bộ đội rồi sẽ lại ra chiến trường, chưa biết sống chết như thế nào. Em có quyết tâm làm vợ lính hay không?”. Tiến mạnh mẽ và dứt khoát trả lời: “Em sẵn sàng”.
Ngày 6-12-1970, anh Vạn và chị Tiến tổ chức đám cưới trong sự chung vui của gia đình và bạn bè. Năm 1971, anh Vạn cùng đơn vị vào chiến trường Quảng Trị. Năm 1972, anh nhận tin vợ ở nhà sinh con trai. Năm 1985, anh Vạn nghỉ hưu và về phường Thượng Thanh, quận Long Biên (Hà Nội) định cư và sống hạnh phúc trong mái ấm gia đình đến ngày hôm nay...
Bài và ảnh: VIỆT THÙY