Thực tế đó đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương cần chủ động nhận diện, đánh giá đúng để tập trung tháo gỡ, giải quyết, bảo đảm cho Tây Nguyên phát triển toàn diện, bền vững.

Địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch

Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế-xã hội (KT-XH), quốc phòng-an ninh (QP-AN) và môi trường sinh thái của đất nước. Những năm qua, các thế lực thù địch, phản động coi Tây Nguyên là một trong các địa bàn trọng điểm để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá nhiều mặt, hòng chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Chúng dung dưỡng lực lượng phản động FULRO, lợi dụng chiêu bài tự do tôn giáo, nhân quyền, một số vấn đề về dân tộc… để kích động, dụ dỗ, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) gây mất ổn định an ninh chính trị, TTATXH, nhằm thực hiện mưu đồ thành lập cái gọi là “Nhà nước Đề ga độc lập”.

Cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh Đắc Lắc tuyên truyền vận động người dân xã Yang Re, huyện Krông Bông xây dựng đời sống văn hóa, không nhẹ dạ nghe theo kẻ xấu.

 

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Nguyễn Văn Danh, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện ủy Cư M’Gar, tỉnh Đắc Lắc nêu vấn đề: Tình hình an ninh trật tự (ANTT) trên địa bàn huyện những năm qua cơ bản ổn định, song vẫn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp, do một số đối tượng phản động FULRO, được sự hà hơi, tiếp sức từ bên ngoài vẫn lén lút hoạt động, tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào DTTS và các tôn giáo; gây chia rẽ đoàn kết các dân tộc; lôi kéo, kích động một bộ phận bà con DTTS gây mất ANTT, vượt biên trái phép, tham gia các tà đạo...

Huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai có đường biên giới và Cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh thông thương với nước bạn Campuchia. Tìm hiểu thực tế tại địa phương, chúng tôi được biết, KT-XH trên địa bàn huyện những năm qua có nhiều khởi sắc, nhưng phát triển không đồng đều, tình trạng di dân tự do khó kiểm soát, nhất là người DTTS từ phía Bắc vào, khiến tình trạng phá rừng làm nương rẫy, tranh chấp đất đai diễn ra khá phức tạp. Mặt khác, một số tổ chức tôn giáo, các tà đạo vẫn hoạt động lén lút, trái pháp luật. Thượng tá Hồ Trung Hiền, Chỉ huy trưởng Ban CHQS huyện cho biết, tình hình an ninh chính trị, TTATXH trên địa bàn cơ bản ổn định, song vẫn tiềm ẩn yếu tố gây mất ổn định. Các tổ chức phản động lưu vong tìm cách liên lạc với một số đối tượng trên địa bàn để tuyên truyền, chống phá. Các đối tượng cầm đầu “Tin Lành Đề ga” tìm cách tụ tập đông người, truyền đạo trái pháp luật, lôi kéo người dân tham gia các tà đạo…

Qua tìm hiểu của chúng tôi, mặc dù Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 đã đi vào cuộc sống, nhưng thời gian qua, tại một số địa phương ở Tây Nguyên vẫn diễn ra các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trái pháp luật, như truyền đạo, lập đạo trái pháp luật; xây dựng trái phép các “nhà nguyện” và lợi dụng các dịp tập trung đông người, như đám cưới, đám ma, để lôi kéo tín đồ hoạt động, làm “đối trọng” và chống đối chính quyền. Các đối tượng FULRO lưu vong ở nước ngoài lợi dụng sự nhẹ dạ của một bộ phận người DTTS để tuyên truyền, lôi kéo phục hồi “Tin lành Đề ga”. Các đối tượng cầm đầu, cốt cán của các tà đạo “Tin lành Đề ga”, Hà Mòn… tìm cách hình thành tổ chức, lôi kéo người tham gia thực hành các hoạt động mê tín dị đoan, tín ngưỡng phản khoa học, trái đạo lý; lợi dụng một số thiếu sót trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, giải quyết vấn đề đất đai… để xuyên tạc đường lối, chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng, Nhà nước, gây hoài nghi, chia rẽ trong đồng bào, kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chia rẽ người Kinh với người DTTS. Chúng coi đó là những “ngòi nổ” để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, mưu đồ gây biểu tình, bạo loạn chính trị.

Đồng chí Nguyễn Cảnh, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đắc Lắc, cho rằng: “Những năm qua, tình hình ở một số địa bàn có yếu tố phức tạp trong tỉnh đã cơ bản “yên”, nhưng chưa thực sự “ổn”. Do vậy, các cấp chính quyền, cơ quan chức năng cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền vận động đồng bào, nhất là người DTTS đề cao cảnh giác, không nghe, không mắc mưu kẻ xấu, đồng thời chủ động đấu tranh bóc gỡ, xử lý các đối tượng tổ chức, tham gia hoạt động FULRO, “Tin lành Đề ga”,  “Tà đạo Hà Mòn”... Đây là công việc thường xuyên, là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài của các cấp ủy đảng, chính quyền, lực lượng chức năng và cả hệ thống chính trị…, nhằm giữ vững ổn định chính trị, ANTT, tăng cường đoàn kết các dân tộc trên địa bàn tỉnh cũng như vùng Tây Nguyên”.

Quản lý, sử dụng đất đai, di cư tự do vẫn là những vấn đề “nóng”

Kết luận 12 của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020, chỉ rõ: “Nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải tập trung giải quyết, như chênh lệch giàu nghèo, vấn đề đất đai, việc làm, đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS sẽ chi phối lớn đến quá trình phát triển chung của cả vùng”.

Quán triệt tinh thần đó, Chương trình số 28-CTtr/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum thực hiện Kết luận số 12, nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng định canh, định cư cho đồng bào DTTS tại chỗ và giải quyết vấn đề dân di cư tự do. Tập trung giải quyết căn bản vấn đề đất đai, trong đó ưu tiên giải quyết đủ đất ở và đất sản xuất cho các hộ DTTS tại chỗ, nhất là hộ nghèo. Hạn chế tối đa tình trạng mua bán, sang nhượng đất trong vùng DTTS…”.

Quyết định 319-QĐ/TTg, ngày 16-3-2012 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH tỉnh Gia Lai đến năm 2020” xác định: “Chuyển dịch cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng và nhu cầu thị trường; nâng cao hiệu quả sử dụng đất; chú trọng phát triển một số cây trồng có giá trị kinh tế cao”…

Tuy nhiên, khảo sát của phóng viên Báo Quân đội nhân dân tại các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum…, cũng như đánh giá của các cơ quan chức năng, quá trình triển khai thực hiện Kết luận 12 và các chủ trương, giải pháp, chỉ tiêu phát triển KT-XH của các địa phương trên địa bàn thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, bất cập, như tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai, thiếu đất sản xuất, đất ở; nạn phá rừng…, nhất là ở vùng DTTS, vùng dân di cư tự do.

Rừng do Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đức Hòa (Đắc Nông) quản lý bị phá làm rẫy.

 

Tháng 12-2018, tại Hội nghị giải pháp ổn định dân di cư tự do trên địa bàn cả nước và quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường tại Tây Nguyên, do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc chủ trì, đồng chí Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nêu thực trạng: Vùng Tây Nguyên có khoảng 52.940 hộ thiếu đất sản xuất, với diện tích khoảng 24.075 ha, trong đó, tỉnh Đắc Lắc có khoảng 19.198 hộ (bằng 36,3% của toàn vùng), với diện tích khoảng 6.590 ha; tỉnh Gia Lai khoảng 12.986 hộ (bằng 22,48% của toàn vùng), với diện tích khoảng 4.920 ha. Số liệu tổng hợp từ báo cáo của các địa phương cho thấy, tại địa bàn 5 tỉnh Tây Nguyên, diện tích đất có nguồn gốc từ nông, lâm trường đang bị lấn chiếm, đang có tranh chấp khoảng 199.290 ha, chiếm 7,3 % tổng diện tích đang quản lý, sử dụng....

Qua khảo sát và tìm hiểu thực tế tại một số tỉnh Tây Nguyên, chúng tôi thấy, mặc dù toàn vùng có tiềm năng lớn về đất đai; các cấp, các ngành, chính quyền các địa phương có nhiều nỗ lực giải quyết, nhưng do tính chất phức tạp của các vụ việc, nguồn gốc đất đai và chất lượng hồ sơ lưu trữ không bảo đảm, nên tiến độ xử lý, giải quyết các vụ việc khiếu kiện, tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng phục vụ các dự án phát triển KT-XH, chuyển đổi cây trồng… còn chậm, gặp nhiều vướng mắc. Đáng chú ý, một vụ việc nổi cộm liên quan đến hợp đồng giao khoán đất và vườn cây, nguồn gốc đất, đòi lại đất, giao chồng lấn đất, chiếm giữ đất trái phép; giải tỏa, đền bù, ổn định sản xuất và đời sống cho đồng bào DTTS thuộc một số dự án, công trình thủy điện…, chưa được giải quyết thấu đáo, dứt điểm, dễ dẫn đến phát sinh “điểm nóng” về ANTT.

Đồng chí Huỳnh Văn Tiến, Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đắc Lắc, nêu thực trạng: Những năm qua, tỉnh có nhiều giải pháp khuyến khích, mời gọi đầu tư. Một số lĩnh vực được các nhà đầu tư trong và ngoài nước quan tâm, như: Phát triển đô thị, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, sản xuất các sản phẩm nông nghiệp…, đặc biệt các dự án năng lượng tái tạo, với 24 dự án điện mặt trời (tổng số vốn đăng ký đề xuất khoảng 50.000 tỷ đồng), cùng hàng chục doanh nghiệp đã đến khảo sát xây dựng các nhà máy điện gió. Tuy nhiên để các dự án thành hiện thực thì còn rất nhiều khó khăn, vướng mắc, nhất là việc giải quyết quỹ đất, vì nhiều địa điểm dự kiến triển khai dự án là đất có tranh chấp, lấn chiếm, đất của nông-lâm trường…

Trao đổi với chúng tôi, lãnh đạo nhiều địa phương ở Tây Nguyên cho rằng, một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu đất sản xuất, nhất là ở vùng đồng bào DTTS là do tình trạng di cư tự do diễn ra phức tạp. Ví như tại tỉnh Đắc Nông, đầu năm 2018 có hơn 157.000 hộ di dân tự do đến địa bàn tỉnh, vượt quá khả năng giải quyết của địa phương, khiến nạn phá rừng, lấn chiếm đất làm nương rẫy diễn ra rất nghiêm trọng.

Người DTTS di cư tự do đến Tây Nguyên thường sinh sống tại vùng sâu, vùng xa, địa hình phức tạp, đất dốc, điều kiện canh tác hạn chế, cơ sở hạ tầng thấp kém; trong khi đó, tập quán canh tác lạc hậu, nên đất sản xuất nhanh bị bạc màu, năng suất cây trồng thấp, nên sau một thời gian, bà con lại bỏ đi nơi khác tiếp tục phá rừng, đốt nương làm rẫy. Do đói nghèo, một số hộ gia đình phải sang nhượng, cầm cố, thế chấp đất sản xuất, rồi không có khả năng chuộc lại, trở thành các hộ không có đất sản xuất.

Một nguyên nhân nữa là công tác quản lý đất đai ở một số địa phương, nông-lâm trường trên địa bàn còn bị buông lỏng, dẫn đến tình trạng mua bán đất, sang nhượng đất trái phép diễn ra khá phổ biến và phức tạp, nhất là ở vùng đồng bào DTTS, vùng có dân di cư tự do. Đồng chí Nguyễn Văn Lạng, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên Chủ tịch UBND Tỉnh Đắc Lắc cho rằng: Các nông-lâm trường trên địa bàn Tây Nguyên những năm trước đây được giao diện tích rất lớn về đất đai, rừng…, nhưng trong một thời gian khá dài việc quản lý, sử dụng đạt hiệu quả thấp, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, dẫn đến lãng phí lớn về tài nguyên đất đai, rừng, trong khi người dân địa phương thiếu đất sản xuất, hoặc bị mất đất. Tình trạng phá rừng, vi phạm pháp luật về đất đai, lấn chiếm, tranh chấp đất đai, xảy ra ở nhiều nơi, nhất là giữa người dân di cư tự do, người DTTS với các nông-lâm trường.

Tìm hiểu tại các địa phương trên địa bàn, chúng tôi nhận thấy, một phần diện tích rừng do các công ty lâm nghiệp bị giải thể chưa được quản lý, bảo vệ chặt chẽ; một số nơi đất rừng vẫn chưa có chủ thực sự, rừng vẫn bị tàn phá; xuất hiện tội phạm bảo kê đất…, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ANTT ở địa bàn. Theo lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những năm qua, Tây Nguyên vẫn là một trong các trọng điểm phá rừng và là “điểm nóng” nhất  trong công tác bảo vệ rừng của cả nước. Diện tích rừng tự nhiên của khu vực Tây Nguyên vẫn tiếp tục bị suy giảm; tỷ lệ che phủ rừng của 3/5 tỉnh trong khu vực là Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông trong những năm gần đây có xu hướng giảm.

Cây trồng chủ lực gặp khó, nông thôn mới “về đích” chậm

Vùng đất Tây Nguyên nổi tiếng là “thủ phủ” của cà phê, cao su, hồ tiêu… Nhiều địa phương, doanh nghiệp trong vùng từng “ăn nên làm ra” nhờ những loại cây này. Những năm trước, chúng tôi từng đến các địa phương trong vùng, chứng kiến nhiều hộ gia đình, làng, xã... triệu phú, tỷ phú nhờ cà phê, cao su, hồ tiêu. Các tỉnh Đắc Lắc và Lâm Đồng có diện tích cà phê nhiều nhất, với hơn 360.000ha. Thời điểm cuối năm 2016, giá cà phê nhân xô hạt khoảng 45.000 đồng/kg, thì tháng 1-2020 giảm còn 31.000 đồng/kg và hiện nay là dưới 30.000 đồng/kg.

Cà phê tại xã Tam Bố, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng chết héo do hạn hán.

 

Cao su, hồ tiêu cũng từng được ví như nguồn “vàng trắng”, “vàng đen” trên cao nguyên. Vùng Tây Nguyên chiếm gần 26% diện tích cao su của cả nước, nhiều nhất tại các tỉnh Gia Lai và Kon Tum; giá cao su có thời điểm khoảng 120 triệu đồng/tấn, nay giảm xuống còn 30 triệu đồng/tấn. Các năm 2015-2016, giá hồ tiêu lúc đỉnh điểm lên tới hơn 200.000 đồng/kg, nên nhiều hộ gia đình, nhất là tại Đắc Lắc, Đắc Nông tiến hành trồng ồ ạt, diện tích tăng đột biến, bất chấp khuyến cáo của cơ quan chức năng. Do cung vượt cầu quá lớn, giá hồ tiêu đen ở Tây Nguyên đầu năm 2020 giảm còn khoảng 42.000 đồng/kg và hiện nay là dưới 40.000 đồng/kg.

Do một số loại cây trồng chủ lực của vùng Tây Nguyên phát triển “nóng”, vượt xa so với quy hoạch chung, dẫn đến giá cả “tụt dốc”, cây chủ lực bị “mất thế”. Cùng với đó, sản phẩm nông-lâm sản xuất khẩu chủ yếu ở dạng thô, trong khi thị trường tiêu thụ gặp khó khăn; một diện tích đáng kể cây trồng bị nhiễm bệnh, chết hàng loạt, hoặc năng suất sụt giảm mạnh, khiến không ít địa phương, nhà vườn, người dân, doanh nghiệp rơi vào tình cảnh lao đao, thậm chí vỡ nợ, phá sản, ảnh hưởng lớn đến đời sống, thu nhập. Cùng với đó, một số chuyên gia, nhà quản lý cho rằng, nhiều địa phương vùng Tây Nguyên vẫn còn loay hoay trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng như trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiến sĩ Nguyễn Văn Lạng, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên Chủ tịch UBND Tỉnh Đắc Lắc cho rằng, cần tập trung phát triển nông nghiệp như một trụ cột cho phát triển kinh tế Tây Nguyên. Cơ cấu kinh tế của vùng phải là nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ-du lịch.

Kết luận 12 nhấn mạnh và đặt ra yêu cầu: “Sớm đưa nông thôn Tây Nguyên thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, phát triển bền vững… Quy hoạch và đầu tư thích đáng để phát triển hạ tầng nông thôn, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM) phù hợp với đặc thù Tây Nguyên”.

Quá trình triển khai thực hiện Kết luận 12 được cấp ủy, chính quyền các địa phương trong vùng thực hiện gắn kết, song hành với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM trong 10 năm qua; nhất là tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng NTM hướng mạnh về cơ sở, tạo chuyển biến rõ rệt, bảo đảm phù hợp, giữ được những nét văn hóa truyền thống của buôn làng đồng bào DTTS, từng bước tạo chuyển biến rõ nét ở các xã đặc biệt khó khăn. Đến cuối năm 2019, vùng Tây Nguyên có 245/599 (chiếm 37,73%) số xã đã đạt chuẩn NTM.

Về xã Ia Dom, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai, chúng tôi chứng kiến sự đổi thay nhanh chóng của địa phương. Từ một xã biên giới đặc biệt khó khăn, Ia Dom đã vươn lên sớm "về đích" NTM, đạt 19/19 tiêu chí. Nhưng theo lãnh đạo xã, thì xây dựng NTM đã khó, nhưng để xã NTM phát triển bền vững, tiếp tục đi lên… là vấn đề rất nan giải, bởi khi đạt chuẩn NTM, Ia Dom không còn được hưởng các nguồn trợ cấp, các chính sách ưu đãi của Nhà nước về  giáo dục, y tế, kinh tế, an sinh xã hội..., trong khi còn nhiều hộ gia đình, nhất là người DTTS thuộc diện hộ nghèo, thu nhập thấp. Cán bộ hưởng lương từ ngân sách Nhà nước cũng bị giảm thu nhập so với trước đây. Đó cũng là băn khoăn trăn trở chung của các xã miền núi, biên giới, vùng DTTS trên địa bàn khi đã đạt chuẩn NTM.

Qua tìm hiểu của phóng viên Báo Quân đội nhân dân, xây dựng NTM ở Tây Nguyên có một số tiêu chí chưa phù hợp với thực tế địa bàn và với đồng bào DTTS, dẫn đến khó thực hiện, hoặc hiệu quả chưa cao. Về nội dung này, lãnh đạo Bộ NN-PTNT cho biết: Chương trình xây dựng NTM vùng Tây Nguyên còn một số khó khăn, tồn tại. Kết quả xây dựng NTM còn khoảng cách chênh lệch khá lớn so với các vùng miền và thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Đến cuối năm 2019, số xã đạt chuẩn NTM vùng Tây Nguyên mới đạt 37,73% (bình quân cả nước đạt 54%); bình quân đạt 14,1 tiêu chí/xã (cả nước đạt 15,66 tiêu chí/xã); toàn vùng mới có 2 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn NTM (cả nước có 111 huyện đạt chuẩn)... Vùng Tây Nguyên còn 11 huyện thuộc 4 tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông, Gia Lai, Kon Tum chưa có xã đạt chuẩn NTM; 2 tỉnh có tỷ lệ xã đạt chuẩn NTM thấp (dưới 30%) là Đắc Nông (26,2%) và Kon Tum (22,1%)...

Để khắc phục một số tồn tại, bất cập trong xây dựng NTM, tháng 10-2016, Bộ NN và PTNT đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1980/QĐ-TTg, sửa đổi, điều chỉnh căn bản về nội hàm, tên, nội dung, chỉ tiêu của 19 tiêu chí, quy định áp dụng theo hướng linh hoạt, giao quyền cho địa phương ban hành văn bản cụ thể hóa bộ tiêu chí cho phù hợp thực tế. Đối với vùng Tây Nguyên, các tiêu chí về giao thông, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hóa, cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, thông tin và truyền thông giai đoạn 2016-2020 được quy định theo hướng áp dụng linh hoạt, phù hợp; nhất là đối với tiêu chí cơ sở vật chất, văn hóa, tạo điều kiện bảo tồn và gìn giữ kiến trúc văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS, như nhà rông của đồng bào Gia Rai, Ba Na; nhà dài của dân tộc Ê đê, nhà Gươl của đồng bào Cơ Tu…

Trao đổi với chúng tôi về chương trình xây dựng NTM, lãnh đạo tỉnh Kon Tum và một số địa phương ở Tây Nguyên đều trăn trở: Nhu cầu xây dựng NTM của các địa phương trong vùng rất lớn, nhưng khả năng huy động nguồn lực hạn chế vì chủ yếu là vùng nghèo, vùng DTTS, miền núi, xuất phát điểm thấp, nguồn vốn đầu tư vào địa bàn còn ít, quy mô sản xuất nhỏ là chủ yếu. Cùng với đó, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực của một bộ phận cán bộ cơ sở, nhất là ở các xã miền núi, biên giới, vùng DTTS còn hạn chế…, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng NTM, cải thiện và nâng cao đời sống, thu nhập của người dân, nhất là của đồng bào DTTS trong vùng.

“Tiềm lực kinh tế và trình độ phát triển còn ở mức thấp đặt ra nhiều khó khăn, thách thức trong việc tổ chức khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của vùng. Nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải tập trung giải quyết, như chênh lệch giàu nghèo, vấn đề đất đai, việc làm, đời sống của đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng DTTS… Tây Nguyên vẫn là địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch…”. (Trích Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị).

Bài và ảnh: QUÂN THỦY-TIẾN DŨNG -TRỊNH  DŨNG-HỒNG SÁNG