Những năm gần đây, Tây Nguyên đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, kinh tế-xã hội cả vùng ngày càng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, góp phần không nhỏ giúp Tây Nguyên hội nhập sâu rộng với cả nước cũng như quốc tế. Tuy vậy, để Tây Nguyên phát triển nhanh và bền vững, phát huy được tối đa tiềm năng, thế mạnh của vùng thì chỉ đầu tư xây dựng cơ bản là chưa đủ. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của một vùng hay một quốc gia thì việc nâng cao năng suất lao động và đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh là yếu tố then chốt. Trước những yêu cầu mới về hội nhập khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN vừa thành lập và sắp tới, các cam kết của TPP có hiệu lực thì Tây Nguyên cần có thay đổi trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, các tỉnh trong vùng cần có sự thay đổi căn bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo, phát triển và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao để làm động lực phát triển.

Các văn kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đều khẳng định: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học... Từng bước hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xã hội học tập. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất, chất lượng; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở, giáo dục-đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”.

Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng đã xác định mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016-2020 là: “Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65-70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%.”. Các nhiệm vụ trọng tâm được xác định là: “Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...)”.

Thực hiện Quyết định số 1951/QĐ-TTg ngày 1-11-2011 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển giáo dục-đào tạo và dạy nghề vùng Tây Nguyên giai đoạn 2011-2015, các tỉnh trong vùng đã đạt được những thành tựu quan trọng. Chất lượng giáo dục và đào tạo từng bước được nâng lên, góp phần đáp ứng yêu cầu về nhân lực có trình độ, tay nghề cao, phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội của vùng. Đến nay, tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đến trường đạt 98,1%; tất cả các huyện có đồng bào dân tộc thiểu số đều có trường phổ thông dân tộc nội trú; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS/THPT vào học trung cấp chuyên nghiệp đạt khoảng 17%; tỷ lệ sinh viên ước đạt khoảng 230 sinh viên/1 vạn dân.

Đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho tương lai, bảo đảm cho vùng Tây Nguyên phát triển bền vững. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tây Nguyên vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Với đặc thù là vùng miền núi, cao nguyên nên dân cư phân bố không tập trung, phân tán đã làm ảnh hưởng đến việc phân bố mạng lưới trường, lớp và huy động học sinh đến trường. Bên cạnh đó, do thiếu thốn về cơ sở vật chất nên Tây Nguyên hiện là vùng có tỷ lệ kiên cố hóa trường, lớp thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước. Tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của vùng chậm nên chưa tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Việc phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT vào học nghề, trung cấp nghề gặp nhiều khó khăn do chưa có chính sách đủ mạnh và chưa có chiến lược mang tính tổng thể về phát triển nguồn nhân lực, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của vùng. Các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn chưa xây dựng được thương hiệu nên gặp nhiều khó khăn trong công tác tuyển sinh đã dẫn đến thực trạng học sinh, sinh viên trên địa bàn chủ yếu theo học tại các vùng có điều kiện tốt hơn như TP Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng. Sau khi học xong thì đa số những sinh viên này cũng ở lại để tìm kiếm việc làm, sinh sống và lập nghiệp chứ không trở về địa phương. Trong khi đó, cơ chế thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ sở đào tạo còn hạn chế và chưa linh hoạt. Đối với công tác dạy nghề, nhận thức của học sinh, cha mẹ và xã hội còn nặng về bằng cấp, coi việc học nghề chỉ là lựa chọn cuối cùng. Nhiều lao động nông thôn, nhất là người dân tộc thiểu số có trình độ văn hóa thấp, chưa nhận thức được lợi ích của việc học nghề hoặc do khó khăn về kinh tế; ý thức chấp hành kỷ luật lao động kém nên chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động trong và ngoài nước.

Giai đoạn 2016-2020 có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển giáo dục và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của vùng Tây Nguyên nhằm thực hiện các nghị quyết, chương trình của Chính phủ cũng như thực hiện Nghị quyết số 29/NQ/TW, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, đầu tư cho tương lai. Chính vì vậy, các tỉnh vùng Tây Nguyên cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; chuyển đổi trọng tâm phát triển đào tạo nguồn nhân lực của vùng từ phát triển quy mô sang nâng cao chất lượng và hiệu quả; đào tạo theo nhu cầu của thị trường và xã hội.

Trước yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập và phát triển thì vấn đề về chất lượng, trình độ lao động đang là yêu cầu cấp thiết đặt ra với các tỉnh trong vùng. Vì vậy, Tây Nguyên cần đẩy mạnh công tác phân luồng, định hướng giáo dục tiếp cận nghề nghiệp cho học sinh để hình thành đội ngũ nhân lực theo quy mô, cơ cấu nghề nghiệp, trình độ đào tạo, đáp ứng được nhu cầu cơ cấu nhân lực cần sử dụng của thị trường lao động. Mặt khác, Tây Nguyên cần sớm có kế hoạch xây dựng cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, đặc biệt các ngành mũi nhọn của vùng; cung cấp thông tin về đào tạo, nhu cầu việc làm; chú trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục trình độ cao...

TRƯỜNG LƯU