Đa số ý kiến tán thành sự cần thiết ban hành nghị quyết. Các ý kiến đã phát biểu cụ thể về tên gọi, hình thức, thời hạn thị thực, phí cấp thị thực, thời gian thí điểm và thẩm quyền cấp. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến băn khoăn về tính khả thi, cũng như yêu cầu bảo đảm về quốc phòng, an ninh; bảo đảm cơ sở vật chất cho việc thí điểm. Do đó, đề nghị cân nhắc về phạm vi thí điểm đối tượng cấp như dự thảo quy định là quá rộng, khó kiểm soát.
Khó kiểm soát nếu áp dụng cho tất cả các nước
Phát biểu làm rõ hơn vấn đề này, đại biểu (ĐB) Hồ Văn Thái (Kiên Giang) cho rằng đối tượng quy định trong Dự thảo là áp dụng cho tất cả người nước ngoài vào Việt Nam là quá rộng. Đây là vấn đề mới, chưa được quy định trong Luật Xuất-nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài vào Việt Nam, mặt khác do ta chưa có kinh nghiệm và điều kiện nhân lực, vật lực cho việc áp dụng, nếu áp dụng rộng rãi có nguy cơ nguy hại đến an ninh quốc gia.
ĐB Đinh Công Sỹ. Ảnh: Cổng TTĐT.
Do đó, đại biểu đề nghị nên quy định đối tượng hẹp lại và ưu tiên áp dụng cho khách du lịch, khách vào Việt Nam khảo sát thị trường với một số nước truyền thống hoặc với một số quốc gia đã có ký kết quan hệ hợp tác với Việt Nam. “Quy định như vậy vừa bảo đảm tính thận trọng, chặt chẽ, vừa phù hợp quan điểm xây dựng nghị quyết là thực hiện thí điểm”, ĐB Thái nêu ý kiến.
Đồng tình với thời gian thực hiện thí điểm trong 2 năm, tuy nhiên ĐB tỉnh Kiên Giang cũng cho rằng nếu bắt đầu áp dụng từ 1-1-2017 là chưa hợp lý vì quá gấp, đội ngũ tinh nhuệ cho lĩnh vực này chưa sẵn sàng và liên quan mạnh mẽ đến an ninh quốc phòng của đất nước, nên đề nghị cân nhắc thời gian cho phù hợp.
Chung ý kiến, ĐB Đinh Công Sỹ (Sơn La) cho rằng việc do yêu cầu ứng xử đối đẳng, có đi có lại trong quan hệ ngoại giao với một số nước mà Chính phủ đã trình Quốc hội cho phép kéo dài thời gian của thị thực hơn so với Luật Xuất-nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài vào Việt Nam, tuy nhiên, dự thảo quy định cấp thị thực không quá 30 ngày, nghĩa là thấp hơn mức mà Việt Nam ký thỏa thuận là không hợp lý.
Như vậy công dân nhập cảnh vào Việt Nam cùng một mục đích nhưng nếu hình thức đề nghị cấp thị thực khác nhau thì thời hạn sẽ khác nhau, ĐB Sỹ nhận xét và lý giải thêm nếu người nước ngoài muốn cấp thị thực thời hạn 1 năm thì làm theo cách truyền thống, còn nếu làm thủ tục điện tử thì chỉ được 30 ngày. Đây là điểm bất hợp lý và thiếu thống nhất trong những văn bản quy phạm pháp luật.
Quan ngại trước tình hình bảo mật thông tin cá nhân và an ninh mạng quốc gia, đại biểu này dẫn chứng vụ việc mất an toàn thông tin hàng không vừa diễn ra, gây nên những đe dọa nhất định, vì vậy cần có các giải pháp cần thiết hơn nữa để bảo đảm an ninh quốc gia, giảm thiểu việc nhập cảnh trái pháp luật. Do đó, ban soạn thảo cần cân nhắc mức độ, chỉ thực hiện thí điểm trong một số khâu mà không phải tất cả các khâu.
ĐB Sỹ cho rằng đối tượng áp dụng như dự thảo là quá rộng, sẽ đặt ra nhiều thách thức cho cơ quan quản lý. Do đó, đề nghị cân nhắc trên cơ sở đối ngoại và an toàn quốc gia quyết định áp dụng với nước nào. Hiện một số nước tiên tiến đã thực hiện cấp thị thực điện tử nhưng vẫn yêu cầu cá nhân phải trình diện trước cơ quan thẩm quyền ở khâu cuối cùng, ĐB Sỹ cho biết thêm.
Đồng tình với chủ trương đúng đắn, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế xã hội, nhất là về du lịch, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, tuy nhiên ĐB Nguyễn Lâm Thành (Lạng Sơn) đề nghị nên duy trì chính sách về thị thực với 22 quốc gia như hiện nay để bảo đảm nguyên tắc cả về quan hệ chính trị và kinh tế; với các quốc gia khác nên có sự phân loại theo nhóm nước, đó là với các quốc gia có độ an toàn cao, hơn ổn định chính trị về an ninh có thể thực hiện cách thức này, với các quốc gia chúng ta khó khăn hoặc không có khả năng kiểm soát thông tin thì vẫn nên áp dụng cách thức truyền thống.
Băn khoăn về tính khả thi của dự án luật, khi thị thực điện tử chỉ có mã vạch mà không có chữ ký và con dấu, ĐB Bùi Đức Hạnh (Thừa Thiên- Huế) lo ngại sẽ tạo ra lỗ hổng về an ninh. ĐB Hạnh cho biết hiện nay về cơ sở hạ tầng mới có 31/61 cửa khẩu quốc tế đường bộ và cảng biển có kết nối đường truyền điện tử. Mặt khác, số du khách vào Việt Nam bằng đường biển ngày càng đông, nếu trước kia khi họ vào đến phao số 0 thì lực lượng chức năng ra để làm thủ tục và khi vào đến cảng là làm xong thủ tục nhưng nếu làm điện tử thì bắt buộc vào trong cảng mới làm được, gây ra sự ách tắc và ảnh hưởng đến du lịch Việt Nam. Ví dụ ở Cảng Chân Mây, TP Huế, khách du lịch chỉ vào 4-5 tiếng để du lịch thì khó thể đi được bởi thời gian thủ tục là quá lâu, ĐB Hạnh nêu ví dụ.
Bộ Công an đã chủ động trong công tác bảo đảm an ninh
Sau khi tiếp thu một số ý kiến mà đại biểu nêu, Bộ trưởng Bộ công an Tô Lâm đã giải trình một số vấn đề mà đại biểu quan tâm. Bộ trưởng khẳng định sự cần thiết ban hành nghị quyết và cho rằng đây là một trong những chính sách thể hiện quyết tâm cải cách thủ tục hành chính triệt để của Chính phủ, phù hợp với chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, giai đoạn 2016-2020.
Bộ trưởng Bộ công an Tô Lâm. Ảnh: Cổng TTĐT Quốc hội.
Bộ trưởng Tô Lâm cho biết bản chất của việc thay và cấp, xin loại thị thực này bằng giao dịch điện tử, thay đổi kể cả cơ quan cấp. Với nghị quyết này, cơ quan xuất nhập cảnh sẽ giao dịch trực tiếp với người nước ngoài và xét, trả lời trực tiếp thông qua giao dịch điện tử. Cách thay đổi này chưa có trong luật nên cần bổ sung nghị quyết quy định những điều trong luật.
Lý giải trước những lo ngại của đại biểu về tính khả thi, khi cho rằng giao dịch điện tử khó bảo đảm an ninh quốc phòng, cơ sở công nghệ thông tin chưa bảo đảm, thời gian chuẩn bị cho thí điểm ngắn, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, vấn đề đại biểu băn khoăn đã được Chính phủ thể hiện trong tờ trình. Theo đó nếu quy trình cấp thị thực điện tử Bộ Công an vẫn thực hiện việc kiểm tra nhân sự và chủ động hơn trong công tác bảo đảm an ninh.
Một trong những biện pháp quản lý người nước ngoài nhập cảnh bằng thủ tục điện tử khi chưa có cơ quan tổ chức, cá nhân là người Việt Nam bảo lãnh thì việc quy định thời hạn điện tử không quá 30 ngày và có giá trị nhập cảnh 1 lần, trong thời gian thực hiện, nếu có các cơ quan bảo lãnh, vẫn thực hiện theo quy định của Luật Xuất-nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài vào Việt Nam.
Về an ninh an toàn mạng, Bộ Công an đã triển khai hệ thống trong và hệ thống ngoài không kết nối trực tiếp, bảo đảm an ninh an toàn mạng, và dữ liệu của hai hệ thống này được thực hiện bằng giai đoạn sao chép. Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, để triển khai dự án này, hệ thống trong đã vận hành từ nhiều năm nay vẫn được tiếp tục củng cố kiểm soát, đáp ứng yêu cầu cho an ninh an toàn. Việc xây dựng hệ thống ngoài về cơ bản Chính phủ đã chủ động chuẩn bị để triển khai từ ngày 1-1-2017.
Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, Bộ trưởng Tô Lâm đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định cho phép những cửa khẩu nào cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thủ tục điện tử, bảo đảm cơ sở hạ tầng việc cấp kiểm soát thị thực điện tử chặt chẽ, an toàn, thống nhất và thuận lợi.
THU HÀ